Đàn chim kêu thương
Cánh nặng chĩu một trời oan-khuất.
Ngóng về Nam,
Về Bắc,
Cả hai phương sừng-sững dựng mây thành.
Sân chùa cây bật gốc
Triền miên tử-khí vây quanh.
Giờ cúng-trái hãi-hùng mưa gió
Từng tiếng kêu bé nhỏ
rào kẽm gai xé nát hồi thanh.
Cá dưới khe vọng về Đông, khắc khoải,
Sao lắng nghe vào màu xanh
Của sông phiêu-lưu
- của biển tung-hoành
Chỉ thấy nước như nước hồ nước ao
nằm trong tù độc-thoại?
Muôn trùng cửa khóa
hơi bốc lên mùi máu còn tanh...
Biển có chừng bao nhiêu góc?
Sông chia làm mấy mươi ngành?
Bọc trong gai, nghẹn lời kinh
Giạt về đâu, phút lâm-hình nửa khuya?
Nhưng đá núi kia
Và lá rừng đây
Căm thù gan héo nát
Mồ hôi nước mắt tháng năm đầy;
Thoắt đã cùng chim cá
Vùng lên tất cả
Niệm mười phương Phật hướng về Tây.
Là có hôm nay
Những người tu hành
Cản tay bạo ngược liều bom đạn
Nổi lửa Từ-Bi giãi sắt đanh.
Tháp chín tầng cao đường dài sáu tháng
Năm mầu Cờ phất tương-lai xanh.
Phật hiển hiện; muôn loài vững bước
Ào lên xiềng-xích tan tành.
Trời quay mặt lại,
Sông núi hò reo cười sảng-khoái,
Kìa xem: Ác-quỷ đã rơi nanh!
Ôi niềm ngây ngất
Khói dâng mây lành!
Trang sử Việt
cũng là trang sử Phật
Trải bao độ hưng suy
dẫu nguy mà chẳng mất
Lại giờ đây sáng ngời uy danh
Hàng chữ số 2 5 0 7 (Hai, Năm, Không, Bảy)
Khắc bằng lửa vào lòng đây lòng đấy
Nơi Trái-tim Bồ-tát truyền sang tinh-anh...
Cỏ cây nhập hội
Chim cá đồng thanh
Vần thơ sóng nổi
Dư âm nhiệt-thành
Rằng: Xe Diệu-Pháp ba ngàn cõi
Một cõi này thơm vết đấu-tranh.
Saigon 11-1963
-------------------------------------------------------------------------
|
| |
|
Trường Ca Phật Đản
Đã chín trăm ngàn kiếp phù-du trôi qua
Từ phút Tình-Thương nhập-thể chói lòa.
Trên giòng Thời-gian
hợp tan bao nhiêu đời tinh đẩu;
Tới nay: thế-kỷ Hai-mươi-sáu
Vừa Tám tuổi phương-phi.
Lũ chúng con ngửa mặt chắp tay quỳ
Hướng nẻo sông Hằng nước Phật,
Cất tiếng niệm ngân vang chín tầng trời đất:
Nam-mô Bổn-sư Thích-ca Mâu-Ni!
...
[thiếu một đoạn]
...
Cây núi Ngự kết ngôi vàng Phật ngự
Nước sông Hương mùi đạo ngát hương đưa
Một lời chuông gọi
Muôn ngàn tiếng thưa.
Nắng Trường-sơn đồng vọng
Hồi-thanh Bến-Hải mưa.
Từ khắp chốn, vượt dầu sôi lửa bỏng
Về nơi đây, mừng tủi mấy cho vừa!
Cầu Bạch-hổ nhịp vang gió-sóng
Chợ Đông-ba đằm vị muối dưa;
Vút cánh dơi bay, này quá-khứ gửi âm thừa!
Hơi đất mồ hoang về, lời lời ẩm ướt;
Lằn roi ngực lạnh về, tiếng tiếng u-ơ.
Và một giọng cười điên lảo-đảo
Xoay ngược Địa-cầu trở lui vòng quỹ-đạo,
Dốc thời-gian đổ ngược hướng huyền cơ...
Chúng con chợt tơi-bời tâm não
Nghe trong da thịt sững-sờ.
Máu khóc xương kêu
trời ơi kìa: bàn tay ai bão táp?
Cho loài kim nghiến răng
bánh xe chà-đạp,
Tám chồi măng rụng xuống
đêm ngàn thu bơ-vơ...
Ôi, bây giờ tưởng bấy giờ;
Vui thành-công lại hồn thơ nghẹn ngào!
Dĩ-vãng chúng con: chuỗi hình-nhân què-quặt;
Mà Tương-lai, mà Hiện-tại...
e còn nguyên nước lửa gươm đao!
Bên tai như thét như gào
Những giây phút, những tháng năm tàn-tật,
Lũ mê-muội hiểu gì đâu lẽ còn lẽ mất,
Rồi đây nhân loại ra sao?
Lạy đấng Thế-Tôn, xin trỏ đường vào
Thế giới của Tình-Thương-Đích-Thật!
Cảnh giả thân hờ lây-lất
Xa vời bến Giác chừng bao?
Thoắt đâu vầng nhật
Bè mây nâng cao;
Tiếng nổ chớp giật
Mười phương hải-trào.
Nghe dội xuống tận lòng sâu trái Đất,
Tung ra hòa tấu khúc thần-giao;
Và ức triệu rễ Bồ-đề
tự muôn cành phơ phất
Rủ xuống trần tâm
đang mừng tủi nao nao;
Lòng chúng con; sa-mạc khát mưa rào!
Kể đã ba mươi ngàn bảy trăm tuần
Trăng đầy Giác-hải, nguyệt tròn Pháp-luân,
Nay ánh sáng lại đêm rằm ngọt mật.
Cõi Ta-bà: thấy chăng ngày-đản-Phật.
Tám nguồn công-đức-thủy
dâng về thanh-khiết băng-trinh?
Tám chồi măng: tám hành-tinh
Nổi trên bọt sóng, hồi sinh huy hoàng.
Đâu còn vết máu,
Chỉ thấy hào-quang!
Lòng tin mấy thuở đi hoang
Đã đến lúc về ngôi: Chín tầng Tháp Báu.
Thiền nguyên, thế-kỷ Hai-mươi-sáu
Vừa tám tuổi hôm nay,
Giữa khoảng trời Nam Đất Việt này!
Lời tụng-niệm vượt âm-giai cao nhất
Nam-mô Bổn-sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Đón dư-âm ngừng núi lở sông bồi...
Càn-khôn treo nhịp Luân-hồi
Chầu quanh một bóng Phật ngồi từ-bi.
Huế, tháng 5, T.L. 1964
----------------------------------------------------------------
Điệp Khúc
Một tiếng hô lên
Rừng người quỳ xuống
Chầu quanh Bảo tọa Kim-liên.
Cành cỗi mầm non đều hớn-hở.
Lá vàng xanh nín thở, từng cây giây phút nhập thiền.
Sông trầm-tư, bến sầu-miên
Vụt trở giấc, hồi-sinh trong Quốc-giáo.
Đài chót-vót nở hoa Tái-tạo
Uy-nghi khoáng hậu vô tiền.
Sỏi đá cũng êm gối quỳ niệm Phật;
Tám mươi vạn tín đồ chấp tay nhìn xuống đất,
Xuyên qua bảy triệu thước bề sâu,
Chỉ trong nháy mắt
Đã cùng gặp nhau
Tận khối lửa trung-tâm Địa-cầu.
Tiềm-thức cháy lên, vọng về cảm giác,
Mỗi tế-bào rung thành nốt-nhạc
Thể-hiện lời kinh ngợp ánh đạo mầu.
Những tia mắt phóng đi,
vượt cả mấy muôn tầng nhiệt-độ,
Cũng hồi-chiếu dư-quang về cửa sổ;
Ôi, từ đây nhục-nhỡn có minh-châu!
Lại một tiếng hô
Rừng người thẳng tắp
Trông ra, kìa! muôn trái nhựa bay lên;
Cùng đàn chim vừa được phóng-sinh
nhịp nhàng bay lên,
Cùng khói hương ngạt ngào bay lên...
Cờ Phật mở tung ra từ những chùm bong bóng;
Trời thủ-đô năm sắc rợp phi thuyền!
Gió mười phương, máu toàn thân nổi sóng,
Biển người dâng lên...
Ôi, những thuyền bay hay thuyền Bát-nhã
Cao vời, cao mãi, vượt ra ngoài vũ-trụ vô-biên,
Chở theo lẽ Từ-bi Hỷ-xả
Từ đỉnh Tuyết giải trường-sơn Hy-mã
Trước đây 2 ngàn 5 trăm lẻ 7 năm
Tháng tư ngày rằm
Đã hiển-hiện kim-thân Phật-tổ.
Chân-lý bay về đâu
sức sống niềm vui bay tới đó.
Ngoài càn-khôn còn ức triệu càn-khôn,
Sỏi đá nhìn theo mát rợi linh-hồn...
Bỗng đâu từ thinh-không
Mưa xuống những Bánh-Xe vàng bạc
Ruổi bình minh rẽ nếp mây hồng;
In dấu lửa Pháp-luân vừa khởi-sắc
Nhô lên ngời chói phương Đông;
Tiếng niệm Phật, Bánh-xe quay vang dội,
Lơ lửng triền cao dẫn nẻo lá khô về cội,
Lăn qua rừng thẳm đưa đường mạch suối ra sông.
Lũ chúng con ngẩng đầu trông:
Dĩ-vãng, Tương-lai, một bóng gương lồng.
Kìa dĩ-vãng: triều Đinh triều Lý,
Biển lúa chín âu ca đời xanh bình trị,
Tổ tiên đều có Phật trong lòng!
Kìa tương lai, dặm dài xa vút mắt;
Nhưng vẫn tiếng chuông chùa dìu-dặt
Mở trăm ngàn lối cảm-thông,
Giải-thoát mê-tân nhân-loại hòa-đồng.
Nòi-giống Việt hôm nay vào hội,
Niềm tin ấy, chẳng sức gì lay nổi!
Lá mơ về cội
Suối tìm ra sông...
Hương khói mênh-mông
Rừng người chuyển gót;
Đoàn diễn-hành tám trăm ngàn như một
Bước lên tề-chỉnh uy-nghi;
Từng bước, từng bước,
Lệ ứa tràn mi;
Lòng thêm gần Phật,
Đường xa kể gì!...
Ôi, con đường tiến tới Lửa-Từ-Bi!
Nơi hào-quang sáng rực;
Nơi trước đây vị thần-tăng Quảng-Đức
Tự đốt mình lên tự hủy mình đi
Cho cõi nhân-sinh mát bóng Phật-kỳ!
Hãy đặt gối xuống Ngã Tư lịch-sử,
Một địa điểm chói lòa vinh dự
Trên bản đồ thế giới từ nay;
Việt-Nam đâu?
Nước có Ngã-Tư này!
Ngã-tư này! Ngã-tư này!
Lửa dâng lòng nước, hương bay về nguồn...
Saigon, tháng 5, t.l. 1964
---------------------------------------------------------------
Tiếng Thơ Mùa Loạn
Lẽ Từ-Bi truyền ra cho Bạo-Lực
Quỳ xuống nơi đây!
Dưới gót ngươi máu lệ tràn đầy.
Và xương tủy chúng-sanh
khúc đã khô queo
khúc còn dính thịt.
Xương máu ấy từ lâu rên siết;
Mẹ-Việt-Nam
trời! đau đớn dường bao!
Ngươi lại hôm nay quỷ-sứ nhập vào
Tay chém giết lộ nguyên hình rắn rết
Toan xông lên chà đạp nữa hay sao?
Hãy quỳ xuống buông cánh tay phun nọc
Rũ bàn tay ngón trót mọc gươm dao!
Mũi nhọn ấy xỉa mười phương tim óc
Của quê-hương... Lòng Mẹ xót như bào!
Con rắn ấy với hai đầu đòn sóc
Mổ dọc ngang; thân Mẹ vốn gầy hao!
Đã đến lúc ngươi cầu xin tội lỗi;
Đây Việt-Nam Quốc-Tự nhịp gieo vàng.
Đã đến lúc ngươi quay đầu xám-hối;
Chuông Giáo đường kia chẳng cũng khua vang?
Dân lành giữa phút tâm-tang
Lòng đau nhóm lửa sẵn sàng.
Hai mươi tám ngôi-sao lệ rỏ
Ngấn bạch-lạp trên quan-tài hiện rõ;
Tình yêu tổ-quốc chân-thành
Một với tình-thương mười loại chúng-sanh.
Mưa trút xuống cày sâu trang sử ngỏ
Giòng nước mắt dài theo đường Tí Ngọ;
Tình yêu nhân-loại bao-la
Một với tình-thương muôn dặm sơn-hà.
Lẽ [1] Từ-Bi truyền cho ngươi, Bạo Lực!
Xóa đi mau hình quỷ bóng ma,
Từ trong ẩn-ức,
Trong mặc-cảm, và ngay trong tiềm-thức;
Để về đây huynh đệ một nhà;
Với bản-lai diện-mục,
Với hồn thiêng núi sông này chung đúc
Bốn ngàn năm vào một sát-na!
Cảm-thông, Đất-Mẹ chưa già
Cành Nam may có nở hoa thanh-bình.
Saigon, tháng 8 t.l. 1964
Ghi chú:
[1] Trong bản in ghi là "Lễ", nghĩ là sai; theo như câu 1, có lẽ phải là "Lẽ".
----------------------------------------------------------------------------
Hoa Trang Thành Tượng
Các ngả trôi về muôn tiếng vang,
Trái tim rung cho đất rung theo nhịp chèo liên-giang,
Chuông bay lên cùng nắng gieo vàng.
Giữa tiết Trùng-dương ngày Tái-tạo
Nghe mạch nước hồi tâm
bát ngát những thanh-âm kỳ ảo;
Đây! Nơi đây thành tượng
Mùa thiêng Hoa-Trang!
Ôi, mùa hoa Quách-thị-Trang,
Hoa Học-trò bất diệt!
Còn nở mãi trên muôn giòng nhiệt huyết
Của tuổi tròn trăng, của tuổi bình-minh,
Của thế-hệ Đôi-mươi lớp lớp có nghiêng mình
Trước màu vàng tươi ánh Đạo.
màu trắng ngát hương trinh!
Nhớ một sớm, đau niềm đau dân-tộc,
Trang bước lên, miệng hoa cười gió lốc.
Cánh hoa gầy loang đỏ máu thư-sinh.
Chỉ một cánh hoa gieo khối bất bình
Mà phút chốc, cả hồn thiêng Cách-Mạng
Đã giấy mực cựa men say
bướm bay giòng phấn bảng;
Nét chữ bừng soi sáng
Hào-khí muôn đời một hiển-linh!
Trang, từng trang sách vở,
Thấp thoáng in hình;
Nam, Ngãi, Sài-đô, Thuận-hóa,
Bàn tay giao-cảm đinh-ninh
Nguyền kéo theo gươm, súng, bút đăng-trình.
Lửa Từ-Bi thắp lên rồi Chính Nghĩa
Hoa Học-Trò xuống tiếp lệnh Hy-Sinh,
Bạo-Lực ấy phải cùng-thiên-tuyệt-địa
Chờ tan thây trong tiếng nổ lôi-đình.
Ngày Một tháng Mười-Một
Trước đây vừa một năm
Giữa khoảng hai hồi chiêu mộ,
Hồn Trang đã nhập vào tiếng nổ
Cùng núi sông trời bể thét hờn căm.
Dưới mưa đạm một hình rơm xụp đổ,
Và trong tiềm-thức chúng tôi
Thần-tượng Hoa-Trang
thể hiện ngay rồi.
Nay, sóng lớp phế-hưng tiếng gào cấp thiết,
Dương mắt ngó Đông Tây
ngàn sợi dây oan nghiệt,
Ánh thép xưa hoài-cảm phút mài trăng;
Viễn ảnh còn nguyên sóng dậy đất bằng.
Nơi tám ngả công-trường
hịch-vải chưa nhòa khí-tiết
Chúng tôi đặt:
với tinh thần bất diệt
Của cuộc đấu tranh
mười tám tháng trước đây,
Tượng Quách-thị-Trang
người nữ-sinh hào-kiệt,
Để thiên thu trường cửu đối cao dày.
Trời nghiêng đất lệch có ngày
Đá kia tượng vững chí này trơ-trơ.
Saigon, 1-11-1964
----------------------------------------------------------------------------
Năm Ngón Tay Phật
Bàn tay Đức-Phật giơ lên
Hồi chuông nhịp mõ vang rền
Gọi tỉnh muôn loài trong cõi bụi.
Năm vị Thiền-Sư lòng cao như núi
Và rỗng không như mõ ấy chuông này.
Gỗ rung Vàng réo Lửa
Đất Nước tình chan-chứa;
Ngũ-Hành-Sơn ngồi nhập-định khuya nay
Cho đến hôm nao thật có ban ngày...
Mười phương hùng-lực
Chẳng sức nào lay;
Nước Việt miền Nam
mấy mươi vòng áp-bức
Rồi như bụi cuốn tro bay
Năm vị Thiền-Sư vẫn ngồi tuyệt-thực,
Muôn vạn chúng-sinh cùng đau rưng-rức,
Lệ tuôn rơi nguyền xóa hết đêm dày.
Gươm dao mặc bọn người hung dữ,
Chỉ Phật trong lòng, Phật ở Tay.
Sáng rực con đường lên Quốc-Tự,
Pháp-Luân vừa hiện: mặt trời quay!
Chiều 22-1, 1965
-----------------------------------------------------------------------------
Tâm Sự Một Giòng Lệ
Nước mắt chảy thành sông
Về Ngôi-Chùa-Của-Nước.
Kìa ai giàn thế công
Sắt thép ngăn đường trước!
Phải người máy hay không
Mà vô-tình thế được?
Ôi, Hòn ngọc Viễn-đông
Lăn theo vàng Nữu-ước!
Câu "Trợ Trụ vi ngược"
Vang vang buồn mênh-mông...
Bên đường chợt ngẩng trông,
Biển ghi: Trần-Quốc-Toản.
Sầu tủi dâng đòi đoạn,
Ông là ai thế ông?
Có phải trai thời loạn.
Ngày xưa phá quân Mông?
Những ai cùng quê-quán?
Những ai cùng tổ-tông?
Càng gẫm càng ai-oán,
Cười phá lên gai chông;
Rách tan mọi huyết-quản
Giòng lệ hóa sông hồng...
Chiều 22-1 T.L. 1965
-----------------------------------------------------------------------------
Chính Nghĩa
TRÍ vút lên ngàn vạn trượng cao
THIỆN TÂM HỘ PHÁP chẳng hề nao
Ánh vàng tuôn khắp soi lòng súng
Tay trắng ngồi kia chấp mũi dao.
Năm hạng dân đều linh cảm thấy
Mười phương Phật đã hiện thân vào.
Những ai tráng-sĩ con nhà Lạc
Trong mũ còn chưa dựng tóc sao?
Saigon 23-1-1965
----------------------------------------------------------------------------
Thời Cảm
Khởi ưng dạ dạ thính đề quyên
Bút kiếm giai minh vũ-hịch truyền.
Thi khả phục long kỳ phục hổ
Chung năng hồi nhật khánh hồi xuyên.
Nhất chiêu giác ngạn thiên-hoa tán
Vạn lý xuân-phong bát-nhã thuyền.
Nam-quốc sơn hà Nam-Quốc-Tự
Như hà ẩm thủy bất tư nguyên!
Dịch nôm
Cuốc kêu nghe đã máu sôi giòng
Bút trỏ đường gươm hịch thẳng giong.
Thơ đuổi rồng thiêng cờ đuổi cọp
Chuông dồn quạ lửa khánh dồn sông.
Hoa trời phút chốc gieo bờ Giác
Thuyền Phật giờ đây lướt gió Đông,
Nước của dân ta chùa của nước
Nhớ nguồn đâu dám một ai không!
Saigon 23-1-1965
-----------------------------------------------------------------------------
Mùa Xuân Tháng Tư
Thiều-quang ngoài cả chín mươi
Riêng trong ánh đạo vàng tươi thấm nhuần
Tháng Tư mới vẹn mười xuân
Hoa Đàm nở, nguyệt Pháp-Luân mới tròn
Gương đầy lên giữa khuôn mòn
Diệt là Sinh, Mất đang Còn phải chăng?
Đêm rằm mở hội hoa-đăng
Con sông nào chả sông Hằng giờ đây!
Phương nào cũng một phương Tây,
Đỉnh non kia giải núi này: Tuyết-Sơn!
Bóng mây hơi nước sạch trơn
Vết đau hình thể ý hờn âm-thanh.
Cát nằm Bến-Hải nghe quanh:
Bèo trôi hoài giấc tung hoành tỉnh chưa?
Hai chiều ngược nắng xuôi mưa
Bánh xe Diệu-Pháp cùng đưa trở về.
Saigon, tháng 5, 65
----------------------------------------------------------------------------
Điềm Thái Hòa
Bước chân Di-Lặc thoáng gần xa
Điềm báo rồi chăng buổi Thái-hòa
Nước chẩy đưa dần mây tới bến
Trăng lên đẩy ngược bóng về hoa.
Nhịp nhàng với trước sau không khác
Chót vót trong trời đất có Ta!
Hội mở tháng Tư lòng hiện Phật
Sáng trưng muôn hạt cát Ngân-hà
Saigon, tháng 5, 65
---------------------------------------------------------------------------
Núi Kia Sông Nọ Chùa Này
Hạt cát tiền thân ngủ bến Hằng
Nơi này chợt tỉnh: Hội hoa-đăng!
Nghe sông núi ngát từ muôn thuở;
Đất Việt trời Nam, Hương-quốc chăng?
Sông núi thơm lừng lẫy
Chùa lên-ngôi thành tên;
Cùng Hương-giang với Hương-Sơn ấy,
Vạn thuở Chùa-Hương dấu Phật truyền.
Ba nén thắp lên
Cùng nghi ngút cháy,
Mười tám trăm năm từ mở kỷ-nguyên.
Bao nhiêu đời tổ tiên
Hương lòng đã thắp,
Nào ta dâng lên
Cho khói chở niềm tin rộng khắp,
Lời nguyện xa bay.
Nguyện cho trời đất cao dày
Núi kia sông nọ Chùa này sáng danh.
Kìa ngọn lửa hôm nào đỏ rực
Kết nên mây lành;
Từ da thịt, từ trái tim
Thầy QUẢNG-ĐỨC,
Lửa dâng cao mùa Pháp-nạn
nghĩa hy-sinh
Thì nước Việt đã là Hương-quốc,
Núi sông nào chẳng ngát anh-linh!
Phải đâu một Hương-sơn miền Bắc,
Một Hương-Giang của xứ Thần-kinh!
Mà đâu cũng Chùa Hương
dấu thơm vằng vặc;
Ôi Việt-Nam Quốc-Tự
mười phương chứng minh!
Nén hương-lòng nguyện chúng-sinh
Tìm cho thấy Phật nơi mình, từ-Tâm?
Chuông Chùa dội mãi dư-âm
Đỉnh gươm-dao bến mê-lầm-sạch không!
Hoa Vô-Ưu nở
Tươi cành Lạc-Hồng;
Bánh xe nhật-nguyệt thanh-bình mở,
Phơi-phới đường lên tự hướng Đông.
Saigon, tháng 6, 1965
-----------------------------------------------------------------------------
Dư Âm Hạt Cát
Theo ngọn triều lên ngủ bến vàng,
Kiếp hành-vân gửi bóng lang-thang.
Qua đêm, nước xuống, mây về biển,
Cát rã rời muôn vết dọc ngang.
Chừ... khắp bình-sa, mỗi khối hờn
Nứt ra thành tiếng gọi cô đơn.
Tay ai vĩ-tuyến vừa căng-thẳng
Cho bản đàn-thu bão nổi cơn?
Saigon tháng 8, 1965
----------------------------------------------------------------------------
Lời Nguyện Đêm Thu
Nước non vô tội bỗng lăng-trì
Xương máu càng đau hận biệt-ly.
Nước bặt tăm rồi non chết ngất
Xương nằm trơ lại máu ra đi.
Nước tuôn trào máu còn mang nghiệp
Non rũ dần xương hẳn lỡ thì!
Hàn gắn nước non xương máu ấy,
Trăng tròn, xin dội ánh từ-bi!
Saigon tháng 9, 1965
-------------------------------------------------------------------------
Bút Nở Hoa Đàm
Ai sẽ là người trong tương-lai
Một sớm một chiều
Vươn tay hái cành hoa Thương Yêu
Làm bút viết,
Nối vào trang sử loài người
Vẫn chép
Từ lâu
Bằng gươm, bằng súng đạn
Của Mông-cổ Thành-cát-tư Đại-Hãn
Của Nã-phá-luân Hoàng-đế Âu-châu?
Bút sa nở trắng bồ câu
Xé đường bay, vỏ đêm sầu rách bung.
Dư-ảnh chiến-thuyền chưa nhạt
Hồi âm ngựa-trận còn rung,
Từng đã lên màu sát-phạt
Hồn Chữ linh-lung,
Từng đã say men gió cát
Hơi văn chập-chùng;
Muôn nét Sử, một nghe triều nhựa mát
Thấm quanh mình, cất cánh sẽ bay tung.
Ôi, mùa đăng-trình,
Có hoa làm bút
Nhựa tuôn giòng mực trắng tinh và trang giấy mang-mang nằm đợi phút
Quay về bản-thể nguyên-trinh!
Đâu đó Trường-sa Quảng-đảo
Vật-vờ tro bụi chúng sinh?
Ngang dọc xương phơi...
chừ... Nam-Việt Bắc-Bình!
Cao thấp máu trôi...
kìa... Đông Tây Bá-Linh!
Ác-mộng ấy phải không còn dấu vết!
Ai sẽ là người, cánh tay hào kiệt,
Trong tương-lai, một sớm một chiều,
Đủ sức hái cành hoa làm bút viết
Những vần Thương-Yêu?
Saigon, tháng 11, 1965
--------------------------------------------------------------------------
Quả Chuông Vĩ Đại
Dao chém lìa tay nhịp mõ rời
Còn nghe niệm Phật tiếng lên khơi.
Búa phang đứt cổ, đầu văng xuống
Đất bỗng thành chuông rung khắp nơi.
28-8-1964
----------------------------------------------------------------------------
Máy Đo Tự Động
Bánh sắt trong dây sắt chuyển đều;
Làn dây nghiến xuống mặt đường kêu.
Xe đi, nhả vết dài vô tận
Xương máu dài ra cũng bấy nhiêu
Tháng 9 -64
--------------------------------------------------------------------------
|
Hiểu Làm Sao Nổi
Người giết người xong chạy tức thì
Mồi ngon chẳng gặm chẳng mang đi.
Rừng sâu cọp đói, nhìn kinh-ngạc
Đảo mắt gầm lên, không hiểu chi!
Tháng 9-64
-----------------------------------------------------------------------
Bóng Đó Hình Đâu
Quảng-đảo bom thiêu ngọc đá tàn
Bóng ai cầm súng vẫn chưa tan
Thiếu-Lâm chùa cổ, nghe trên vách
Bóng Đạt-Ma ngồi bật tiếng than.
Tháng 9-64
------------------------------------------------------------------------
Sứ Mạng Lịch Sử
Trời thủng, ngàn xưa đã có ngay
Nữ-Oa đội đá vá liền tay.
Sao tình nhân-loại chưa ai vá?
Chẳng lẽ Nàng Thơ cũng ngủ say!
Tháng 10-64
-----------------------------------------------------------------------
|
Hỏa Lệnh Cuối Thu
Cửu-trùng gươm báu uổng trao tay,
Trùng-cửu thơ trao lửa hẹn ngày.
Một gió-mười-phương, mây ruổi gấp;
Khói trong lò nữa, gấp theo mây!
Tháng 10-64
|
----------------------------------------------------------------------
Hoa Trang Hương Sách
Nước Việt từ sau buổi xuống đường,
Hoa Trang giòng-giõi ngát thư-hương.
Trên bờ năm tháng soi thân phận,
Liễu hết thời khoe họ Đế-vương!
Tháng 10-64
----------------------------------------------------------------------
Ngả Nào Sinh Lộ
Tuổi xanh máu đỏ ngập sông dài
Hỏi mỹ-nhân còn đẹp với ai!
Mấy kiếp tiền-sinh hằn mặt đá
Con đường sống, vẫn cửa Như-Lai!
Tháng 10-64
-----------------------------------------------------------------------
Ác Mộng Đường Xa
Sớm trưa vượt thác với băng đèo
Muôn dặm hình đâu bóng đó theo
Hình bóng tách rời ư? Cũng lúc
Đêm rừng mở sẵn miệng hùm beo!
Tháng 11-64
-----------------------------------------------------------------------
Con Đường Tranh Đấu
Lửa âm ỉ cháy, sức thêm bền,
Đốt ngắn vòng hương nhích mãi lên.
Từng phút hương thiêu, vòng hẹp mãi;
Về ngôi, điểm lửa vút như tên.
Tháng 11-64
----------------------------------------------------------------------
|
Tang Tóc Miền Trung
Mồ chôn tự-động thắt vòng dây
Huyệt sóng đào lên giục gửi thây.
Hàng vạn sinh linh vùi nước bạc,
Non Hoành mặc-niệm trắng khăn mây.
Tháng 11-64
|
----------------------------------------------------------------------
Thảm Cảnh Bão Lụt
Tiếng khóc hài nhi nước cuốn trôi,
U-ơ còn tưởng vẫn nằm nôi.
Biết bao giờ mới khô nguồn lệ?
Bồ-Tát thiêu thân bẩy vị rồi!
Tháng 11-64
---------------------------------------------------------------------
Trâu Nước Bão Trời
Con ôm cổ mẹ biết về đâu?
Đâu cỏ thơm hương ruộng tốt màu?
Mẹ chẳng rời con trong nạn nước,
Tha hồ sóng rẽ luống cày sâu!
Tháng 11-64
---------------------------------------------------------------------
Hai Ngày Tuyệt Thực
Giờ thụ-trai không điểm nữa rồi
Can trường duy có nước mà thôi
Lửa mười phương sẵn nung tâm trí,
Khoảnh khắc làm cho nước cũng sôi.
14-12-64
----------------------------------------------------------------------
|
Tin Tưởng Muôn Đời
Chặt vụn cây kim mấy mặc dầu,
Chỉ Nam chỉ Bắc vẫn hai đầu
Cùng nương tựa để tìm phương hướng,
Từ-tính nào ai hủy được đâu!
Tháng 12-64
|
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment