Powered By Blogger

Ánh Trăng Đạo Lý

 
 1 Bánh xe Diệu Pháp
   2 Trường ca Phật Đản
   3 Điệp Khúc
   4 Tiếng Thơ Mùa Loạn
   5 Hoa Trang Thành Tượng
   6 Năm Ngón Tay Phật
   7 Tâm Sự Một Giòng Lệ
   8 Chính Nghĩa
   9 Thời Cảm
  10 Mùa Xuân Tháng Tư
  11 Điềm Thái-Hòa
  12 Núi Kia Sông Nọ Chùa Này
  13 Dư Âm Hạt Cát
  14 Lời Nguyện Đêm Thu
  15 Bút Nở Hoa Đàm
   16 Quả Chuông Vĩ Đại
  17 Máy Đo Tự Động
  18 Hiểu Làm Sao Nổi
  19 Bóng Đó Hình Đâu
  20 Sứ Mạng Lịch Sử
  21 Hỏa Lệnh Cuối Thu
  22 Hoa Trang Hương Sách
  23 Ngả Nào Sinh Lộ
  24 Ác Mộng Đường Xa
  25 Con Đường Tranh Đấu
  26 Tang Tóc Miền Trung
  27 Thảm Cảnh Bão Lụt
  28 Trâu Nước Bão Trời
  29 Hai Ngày Tuyệt Thực
  30 Tin Tưởng Muôn Đời
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 




Bánh Xe Diệu Pháp

Đàn chim kêu thương Cánh nặng chĩu một trời oan-khuất. Ngóng về Nam, Về Bắc, Cả hai phương sừng-sững dựng mây thành. Sân chùa cây bật gốc Triền miên tử-khí vây quanh. Giờ cúng-trái hãi-hùng mưa gió Từng tiếng kêu bé nhỏ rào kẽm gai xé nát hồi thanh. Cá dưới khe vọng về Đông, khắc khoải, Sao lắng nghe vào màu xanh Của sông phiêu-lưu
- của biển tung-hoành Chỉ thấy nước như nước hồ nước ao nằm trong tù độc-thoại? Muôn trùng cửa khóa hơi bốc lên mùi máu còn tanh... Biển có chừng bao nhiêu góc? Sông chia làm mấy mươi ngành? Bọc trong gai, nghẹn lời kinh Giạt về đâu, phút lâm-hình nửa khuya? Nhưng đá núi kia Và lá rừng đây Căm thù gan héo nát Mồ hôi nước mắt tháng năm đầy; Thoắt đã cùng chim cá Vùng lên tất cả Niệm mười phương Phật hướng về Tây. Là có hôm nay Những người tu hành Cản tay bạo ngược liều bom đạn Nổi lửa Từ-Bi giãi sắt đanh. Tháp chín tầng cao đường dài sáu tháng Năm mầu Cờ phất tương-lai xanh. Phật hiển hiện; muôn loài vững bước Ào lên xiềng-xích tan tành. Trời quay mặt lại, Sông núi hò reo cười sảng-khoái, Kìa xem: Ác-quỷ đã rơi nanh! Ôi niềm ngây ngất Khói dâng mây lành! Trang sử Việt cũng là trang sử Phật Trải bao độ hưng suy dẫu nguy mà chẳng mất Lại giờ đây sáng ngời uy danh Hàng chữ số 2 5 0 7 (Hai, Năm, Không, Bảy) Khắc bằng lửa vào lòng đây lòng đấy Nơi Trái-tim Bồ-tát truyền sang tinh-anh... Cỏ cây nhập hội Chim cá đồng thanh Vần thơ sóng nổi Dư âm nhiệt-thành Rằng: Xe Diệu-Pháp ba ngàn cõi Một cõi này thơm vết đấu-tranh.

Saigon 11-1963
-------------------------------------------------------------------------
 

Trường Ca Phật Đản


Đã chín trăm ngàn kiếp phù-du trôi qua Từ phút Tình-Thương nhập-thể chói lòa. Trên giòng Thời-gian hợp tan bao nhiêu đời tinh đẩu; Tới nay: thế-kỷ Hai-mươi-sáu Vừa Tám tuổi phương-phi. Lũ chúng con ngửa mặt chắp tay quỳ Hướng nẻo sông Hằng nước Phật, Cất tiếng niệm ngân vang chín tầng trời đất: Nam-mô Bổn-sư Thích-ca Mâu-Ni! ... [thiếu một đoạn] ... Cây núi Ngự kết ngôi vàng Phật ngự Nước sông Hương mùi đạo ngát hương đưa Một lời chuông gọi Muôn ngàn tiếng thưa. Nắng Trường-sơn đồng vọng Hồi-thanh Bến-Hải mưa. Từ khắp chốn, vượt dầu sôi lửa bỏng Về nơi đây, mừng tủi mấy cho vừa! Cầu Bạch-hổ nhịp vang gió-sóng Chợ Đông-ba đằm vị muối dưa; Vút cánh dơi bay, này quá-khứ gửi âm thừa! Hơi đất mồ hoang về, lời lời ẩm ướt; Lằn roi ngực lạnh về, tiếng tiếng u-ơ. Và một giọng cười điên lảo-đảo Xoay ngược Địa-cầu trở lui vòng quỹ-đạo, Dốc thời-gian đổ ngược hướng huyền cơ... Chúng con chợt tơi-bời tâm não Nghe trong da thịt sững-sờ. Máu khóc xương kêu trời ơi kìa: bàn tay ai bão táp? Cho loài kim nghiến răng bánh xe chà-đạp, Tám chồi măng rụng xuống đêm ngàn thu bơ-vơ... Ôi, bây giờ tưởng bấy giờ; Vui thành-công lại hồn thơ nghẹn ngào! Dĩ-vãng chúng con: chuỗi hình-nhân què-quặt; Mà Tương-lai, mà Hiện-tại... e còn nguyên nước lửa gươm đao! Bên tai như thét như gào Những giây phút, những tháng năm tàn-tật, Lũ mê-muội hiểu gì đâu lẽ còn lẽ mất, Rồi đây nhân loại ra sao? Lạy đấng Thế-Tôn, xin trỏ đường vào Thế giới của Tình-Thương-Đích-Thật! Cảnh giả thân hờ lây-lất Xa vời bến Giác chừng bao? Thoắt đâu vầng nhật Bè mây nâng cao; Tiếng nổ chớp giật Mười phương hải-trào. Nghe dội xuống tận lòng sâu trái Đất, Tung ra hòa tấu khúc thần-giao; Và ức triệu rễ Bồ-đề tự muôn cành phơ phất Rủ xuống trần tâm đang mừng tủi nao nao; Lòng chúng con; sa-mạc khát mưa rào! Kể đã ba mươi ngàn bảy trăm tuần Trăng đầy Giác-hải, nguyệt tròn Pháp-luân, Nay ánh sáng lại đêm rằm ngọt mật. Cõi Ta-bà: thấy chăng ngày-đản-Phật. Tám nguồn công-đức-thủy dâng về thanh-khiết băng-trinh? Tám chồi măng: tám hành-tinh Nổi trên bọt sóng, hồi sinh huy hoàng. Đâu còn vết máu, Chỉ thấy hào-quang! Lòng tin mấy thuở đi hoang Đã đến lúc về ngôi: Chín tầng Tháp Báu. Thiền nguyên, thế-kỷ Hai-mươi-sáu Vừa tám tuổi hôm nay, Giữa khoảng trời Nam Đất Việt này! Lời tụng-niệm vượt âm-giai cao nhất Nam-mô Bổn-sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Đón dư-âm ngừng núi lở sông bồi... Càn-khôn treo nhịp Luân-hồi Chầu quanh một bóng Phật ngồi từ-bi.

Huế, tháng 5, T.L. 1964
----------------------------------------------------------------

  Điệp Khúc


Một tiếng hô lên Rừng người quỳ xuống Chầu quanh Bảo tọa Kim-liên. Cành cỗi mầm non đều hớn-hở. Lá vàng xanh nín thở, từng cây giây phút nhập thiền. Sông trầm-tư, bến sầu-miên Vụt trở giấc, hồi-sinh trong Quốc-giáo. Đài chót-vót nở hoa Tái-tạo Uy-nghi khoáng hậu vô tiền. Sỏi đá cũng êm gối quỳ niệm Phật; Tám mươi vạn tín đồ chấp tay nhìn xuống đất, Xuyên qua bảy triệu thước bề sâu, Chỉ trong nháy mắt Đã cùng gặp nhau Tận khối lửa trung-tâm Địa-cầu. Tiềm-thức cháy lên, vọng về cảm giác, Mỗi tế-bào rung thành nốt-nhạc Thể-hiện lời kinh ngợp ánh đạo mầu. Những tia mắt phóng đi, vượt cả mấy muôn tầng nhiệt-độ, Cũng hồi-chiếu dư-quang về cửa sổ; Ôi, từ đây nhục-nhỡn có minh-châu! Lại một tiếng hô Rừng người thẳng tắp Trông ra, kìa! muôn trái nhựa bay lên; Cùng đàn chim vừa được phóng-sinh nhịp nhàng bay lên, Cùng khói hương ngạt ngào bay lên... Cờ Phật mở tung ra từ những chùm bong bóng; Trời thủ-đô năm sắc rợp phi thuyền! Gió mười phương, máu toàn thân nổi sóng, Biển người dâng lên... Ôi, những thuyền bay hay thuyền Bát-nhã Cao vời, cao mãi, vượt ra ngoài vũ-trụ vô-biên, Chở theo lẽ Từ-bi Hỷ-xả Từ đỉnh Tuyết giải trường-sơn Hy-mã Trước đây 2 ngàn 5 trăm lẻ 7 năm Tháng tư ngày rằm Đã hiển-hiện kim-thân Phật-tổ. Chân-lý bay về đâu sức sống niềm vui bay tới đó. Ngoài càn-khôn còn ức triệu càn-khôn, Sỏi đá nhìn theo mát rợi linh-hồn... Bỗng đâu từ thinh-không Mưa xuống những Bánh-Xe vàng bạc Ruổi bình minh rẽ nếp mây hồng; In dấu lửa Pháp-luân vừa khởi-sắc Nhô lên ngời chói phương Đông; Tiếng niệm Phật, Bánh-xe quay vang dội, Lơ lửng triền cao dẫn nẻo lá khô về cội, Lăn qua rừng thẳm đưa đường mạch suối ra sông. Lũ chúng con ngẩng đầu trông: Dĩ-vãng, Tương-lai, một bóng gương lồng. Kìa dĩ-vãng: triều Đinh triều Lý, Biển lúa chín âu ca đời xanh bình trị, Tổ tiên đều có Phật trong lòng! Kìa tương lai, dặm dài xa vút mắt; Nhưng vẫn tiếng chuông chùa dìu-dặt Mở trăm ngàn lối cảm-thông, Giải-thoát mê-tân nhân-loại hòa-đồng. Nòi-giống Việt hôm nay vào hội, Niềm tin ấy, chẳng sức gì lay nổi! Lá mơ về cội Suối tìm ra sông... Hương khói mênh-mông Rừng người chuyển gót; Đoàn diễn-hành tám trăm ngàn như một Bước lên tề-chỉnh uy-nghi; Từng bước, từng bước, Lệ ứa tràn mi; Lòng thêm gần Phật, Đường xa kể gì!... Ôi, con đường tiến tới Lửa-Từ-Bi! Nơi hào-quang sáng rực; Nơi trước đây vị thần-tăng Quảng-Đức Tự đốt mình lên tự hủy mình đi Cho cõi nhân-sinh mát bóng Phật-kỳ! Hãy đặt gối xuống Ngã Tư lịch-sử, Một địa điểm chói lòa vinh dự Trên bản đồ thế giới từ nay; Việt-Nam đâu? Nước có Ngã-Tư này! Ngã-tư này! Ngã-tư này! Lửa dâng lòng nước, hương bay về nguồn...

Saigon, tháng 5, t.l. 1964
---------------------------------------------------------------

  Tiếng Thơ Mùa Loạn


Lẽ Từ-Bi truyền ra cho Bạo-Lực Quỳ xuống nơi đây! Dưới gót ngươi máu lệ tràn đầy. Và xương tủy chúng-sanh khúc đã khô queo khúc còn dính thịt. Xương máu ấy từ lâu rên siết; Mẹ-Việt-Nam trời! đau đớn dường bao! Ngươi lại hôm nay quỷ-sứ nhập vào Tay chém giết lộ nguyên hình rắn rết Toan xông lên chà đạp nữa hay sao? Hãy quỳ xuống buông cánh tay phun nọc Rũ bàn tay ngón trót mọc gươm dao! Mũi nhọn ấy xỉa mười phương tim óc Của quê-hương... Lòng Mẹ xót như bào! Con rắn ấy với hai đầu đòn sóc Mổ dọc ngang; thân Mẹ vốn gầy hao! Đã đến lúc ngươi cầu xin tội lỗi; Đây Việt-Nam Quốc-Tự nhịp gieo vàng. Đã đến lúc ngươi quay đầu xám-hối; Chuông Giáo đường kia chẳng cũng khua vang? Dân lành giữa phút tâm-tang Lòng đau nhóm lửa sẵn sàng. Hai mươi tám ngôi-sao lệ rỏ Ngấn bạch-lạp trên quan-tài hiện rõ; Tình yêu tổ-quốc chân-thành Một với tình-thương mười loại chúng-sanh. Mưa trút xuống cày sâu trang sử ngỏ Giòng nước mắt dài theo đường Tí Ngọ; Tình yêu nhân-loại bao-la Một với tình-thương muôn dặm sơn-hà. Lẽ [1] Từ-Bi truyền cho ngươi, Bạo Lực! Xóa đi mau hình quỷ bóng ma, Từ trong ẩn-ức, Trong mặc-cảm, và ngay trong tiềm-thức; Để về đây huynh đệ một nhà; Với bản-lai diện-mục, Với hồn thiêng núi sông này chung đúc Bốn ngàn năm vào một sát-na! Cảm-thông, Đất-Mẹ chưa già Cành Nam may có nở hoa thanh-bình.

Saigon, tháng 8 t.l. 1964

Ghi chú: [1] Trong bản in ghi là "Lễ", nghĩ là sai; theo như câu 1, có lẽ phải là "Lẽ".
----------------------------------------------------------------------------

  Hoa Trang Thành Tượng


Các ngả trôi về muôn tiếng vang, Trái tim rung cho đất rung theo nhịp chèo liên-giang, Chuông bay lên cùng nắng gieo vàng. Giữa tiết Trùng-dương ngày Tái-tạo Nghe mạch nước hồi tâm bát ngát những thanh-âm kỳ ảo; Đây! Nơi đây thành tượng Mùa thiêng Hoa-Trang! Ôi, mùa hoa Quách-thị-Trang, Hoa Học-trò bất diệt! Còn nở mãi trên muôn giòng nhiệt huyết Của tuổi tròn trăng, của tuổi bình-minh, Của thế-hệ Đôi-mươi lớp lớp có nghiêng mình Trước màu vàng tươi ánh Đạo. màu trắng ngát hương trinh! Nhớ một sớm, đau niềm đau dân-tộc, Trang bước lên, miệng hoa cười gió lốc. Cánh hoa gầy loang đỏ máu thư-sinh. Chỉ một cánh hoa gieo khối bất bình Mà phút chốc, cả hồn thiêng Cách-Mạng Đã giấy mực cựa men say bướm bay giòng phấn bảng; Nét chữ bừng soi sáng Hào-khí muôn đời một hiển-linh! Trang, từng trang sách vở, Thấp thoáng in hình; Nam, Ngãi, Sài-đô, Thuận-hóa, Bàn tay giao-cảm đinh-ninh Nguyền kéo theo gươm, súng, bút đăng-trình. Lửa Từ-Bi thắp lên rồi Chính Nghĩa Hoa Học-Trò xuống tiếp lệnh Hy-Sinh, Bạo-Lực ấy phải cùng-thiên-tuyệt-địa Chờ tan thây trong tiếng nổ lôi-đình. Ngày Một tháng Mười-Một Trước đây vừa một năm Giữa khoảng hai hồi chiêu mộ, Hồn Trang đã nhập vào tiếng nổ Cùng núi sông trời bể thét hờn căm. Dưới mưa đạm một hình rơm xụp đổ, Và trong tiềm-thức chúng tôi Thần-tượng Hoa-Trang thể hiện ngay rồi. Nay, sóng lớp phế-hưng tiếng gào cấp thiết, Dương mắt ngó Đông Tây ngàn sợi dây oan nghiệt, Ánh thép xưa hoài-cảm phút mài trăng; Viễn ảnh còn nguyên sóng dậy đất bằng. Nơi tám ngả công-trường hịch-vải chưa nhòa khí-tiết Chúng tôi đặt: với tinh thần bất diệt Của cuộc đấu tranh mười tám tháng trước đây, Tượng Quách-thị-Trang người nữ-sinh hào-kiệt, Để thiên thu trường cửu đối cao dày. Trời nghiêng đất lệch có ngày Đá kia tượng vững chí này trơ-trơ.

Saigon, 1-11-1964
----------------------------------------------------------------------------

  Năm Ngón Tay Phật


Bàn tay Đức-Phật giơ lên Hồi chuông nhịp mõ vang rền Gọi tỉnh muôn loài trong cõi bụi. Năm vị Thiền-Sư lòng cao như núi Và rỗng không như mõ ấy chuông này. Gỗ rung Vàng réo Lửa Đất Nước tình chan-chứa; Ngũ-Hành-Sơn ngồi nhập-định khuya nay Cho đến hôm nao thật có ban ngày... Mười phương hùng-lực Chẳng sức nào lay; Nước Việt miền Nam mấy mươi vòng áp-bức Rồi như bụi cuốn tro bay Năm vị Thiền-Sư vẫn ngồi tuyệt-thực, Muôn vạn chúng-sinh cùng đau rưng-rức, Lệ tuôn rơi nguyền xóa hết đêm dày. Gươm dao mặc bọn người hung dữ, Chỉ Phật trong lòng, Phật ở Tay. Sáng rực con đường lên Quốc-Tự, Pháp-Luân vừa hiện: mặt trời quay!

Chiều 22-1, 1965
-----------------------------------------------------------------------------

  Tâm Sự Một Giòng Lệ


Nước mắt chảy thành sông Về Ngôi-Chùa-Của-Nước. Kìa ai giàn thế công Sắt thép ngăn đường trước! Phải người máy hay không Mà vô-tình thế được? Ôi, Hòn ngọc Viễn-đông Lăn theo vàng Nữu-ước! Câu "Trợ Trụ vi ngược" Vang vang buồn mênh-mông... Bên đường chợt ngẩng trông, Biển ghi: Trần-Quốc-Toản. Sầu tủi dâng đòi đoạn, Ông là ai thế ông? Có phải trai thời loạn. Ngày xưa phá quân Mông? Những ai cùng quê-quán? Những ai cùng tổ-tông? Càng gẫm càng ai-oán, Cười phá lên gai chông; Rách tan mọi huyết-quản Giòng lệ hóa sông hồng...

Chiều 22-1 T.L. 1965
-----------------------------------------------------------------------------

  Chính Nghĩa


TRÍ vút lên ngàn vạn trượng cao THIỆN TÂM HỘ PHÁP chẳng hề nao Ánh vàng tuôn khắp soi lòng súng Tay trắng ngồi kia chấp mũi dao. Năm hạng dân đều linh cảm thấy Mười phương Phật đã hiện thân vào. Những ai tráng-sĩ con nhà Lạc Trong mũ còn chưa dựng tóc sao?

Saigon 23-1-1965
----------------------------------------------------------------------------

  Thời Cảm


Khởi ưng dạ dạ thính đề quyên Bút kiếm giai minh vũ-hịch truyền. Thi khả phục long kỳ phục hổ Chung năng hồi nhật khánh hồi xuyên. Nhất chiêu giác ngạn thiên-hoa tán Vạn lý xuân-phong bát-nhã thuyền. Nam-quốc sơn hà Nam-Quốc-Tự Như hà ẩm thủy bất tư nguyên!
Dịch nôm
Cuốc kêu nghe đã máu sôi giòng Bút trỏ đường gươm hịch thẳng giong. Thơ đuổi rồng thiêng cờ đuổi cọp Chuông dồn quạ lửa khánh dồn sông. Hoa trời phút chốc gieo bờ Giác Thuyền Phật giờ đây lướt gió Đông, Nước của dân ta chùa của nước Nhớ nguồn đâu dám một ai không!

Saigon 23-1-1965
-----------------------------------------------------------------------------

  Mùa Xuân Tháng Tư


Thiều-quang ngoài cả chín mươi Riêng trong ánh đạo vàng tươi thấm nhuần Tháng Tư mới vẹn mười xuân Hoa Đàm nở, nguyệt Pháp-Luân mới tròn Gương đầy lên giữa khuôn mòn Diệt là Sinh, Mất đang Còn phải chăng? Đêm rằm mở hội hoa-đăng Con sông nào chả sông Hằng giờ đây! Phương nào cũng một phương Tây, Đỉnh non kia giải núi này: Tuyết-Sơn! Bóng mây hơi nước sạch trơn Vết đau hình thể ý hờn âm-thanh. Cát nằm Bến-Hải nghe quanh: Bèo trôi hoài giấc tung hoành tỉnh chưa? Hai chiều ngược nắng xuôi mưa Bánh xe Diệu-Pháp cùng đưa trở về.

Saigon, tháng 5, 65
----------------------------------------------------------------------------

  Điềm Thái Hòa


Bước chân Di-Lặc thoáng gần xa Điềm báo rồi chăng buổi Thái-hòa Nước chẩy đưa dần mây tới bến Trăng lên đẩy ngược bóng về hoa. Nhịp nhàng với trước sau không khác Chót vót trong trời đất có Ta! Hội mở tháng Tư lòng hiện Phật Sáng trưng muôn hạt cát Ngân-hà

Saigon, tháng 5, 65
---------------------------------------------------------------------------

  Núi Kia Sông Nọ Chùa Này


Hạt cát tiền thân ngủ bến Hằng Nơi này chợt tỉnh: Hội hoa-đăng! Nghe sông núi ngát từ muôn thuở; Đất Việt trời Nam, Hương-quốc chăng? Sông núi thơm lừng lẫy Chùa lên-ngôi thành tên; Cùng Hương-giang với Hương-Sơn ấy, Vạn thuở Chùa-Hương dấu Phật truyền. Ba nén thắp lên Cùng nghi ngút cháy, Mười tám trăm năm từ mở kỷ-nguyên. Bao nhiêu đời tổ tiên Hương lòng đã thắp, Nào ta dâng lên Cho khói chở niềm tin rộng khắp, Lời nguyện xa bay. Nguyện cho trời đất cao dày Núi kia sông nọ Chùa này sáng danh. Kìa ngọn lửa hôm nào đỏ rực Kết nên mây lành; Từ da thịt, từ trái tim Thầy QUẢNG-ĐỨC, Lửa dâng cao mùa Pháp-nạn nghĩa hy-sinh Thì nước Việt đã là Hương-quốc, Núi sông nào chẳng ngát anh-linh! Phải đâu một Hương-sơn miền Bắc, Một Hương-Giang của xứ Thần-kinh! Mà đâu cũng Chùa Hương dấu thơm vằng vặc; Ôi Việt-Nam Quốc-Tự mười phương chứng minh! Nén hương-lòng nguyện chúng-sinh Tìm cho thấy Phật nơi mình, từ-Tâm? Chuông Chùa dội mãi dư-âm Đỉnh gươm-dao bến mê-lầm-sạch không! Hoa Vô-Ưu nở Tươi cành Lạc-Hồng; Bánh xe nhật-nguyệt thanh-bình mở, Phơi-phới đường lên tự hướng Đông.

Saigon, tháng 6, 1965
-----------------------------------------------------------------------------

  Dư Âm Hạt Cát


Theo ngọn triều lên ngủ bến vàng, Kiếp hành-vân gửi bóng lang-thang. Qua đêm, nước xuống, mây về biển, Cát rã rời muôn vết dọc ngang. Chừ... khắp bình-sa, mỗi khối hờn Nứt ra thành tiếng gọi cô đơn. Tay ai vĩ-tuyến vừa căng-thẳng Cho bản đàn-thu bão nổi cơn?

Saigon tháng 8, 1965
----------------------------------------------------------------------------

  Lời Nguyện Đêm Thu


Nước non vô tội bỗng lăng-trì Xương máu càng đau hận biệt-ly. Nước bặt tăm rồi non chết ngất Xương nằm trơ lại máu ra đi. Nước tuôn trào máu còn mang nghiệp Non rũ dần xương hẳn lỡ thì! Hàn gắn nước non xương máu ấy, Trăng tròn, xin dội ánh từ-bi!

Saigon tháng 9, 1965
-------------------------------------------------------------------------

  Bút Nở Hoa Đàm


Ai sẽ là người trong tương-lai Một sớm một chiều Vươn tay hái cành hoa Thương Yêu Làm bút viết, Nối vào trang sử loài người Vẫn chép Từ lâu Bằng gươm, bằng súng đạn Của Mông-cổ Thành-cát-tư Đại-Hãn Của Nã-phá-luân Hoàng-đế Âu-châu? Bút sa nở trắng bồ câu Xé đường bay, vỏ đêm sầu rách bung. Dư-ảnh chiến-thuyền chưa nhạt Hồi âm ngựa-trận còn rung, Từng đã lên màu sát-phạt Hồn Chữ linh-lung, Từng đã say men gió cát Hơi văn chập-chùng; Muôn nét Sử, một nghe triều nhựa mát Thấm quanh mình, cất cánh sẽ bay tung. Ôi, mùa đăng-trình, Có hoa làm bút Nhựa tuôn giòng mực trắng tinh và trang giấy mang-mang nằm đợi phút Quay về bản-thể nguyên-trinh! Đâu đó Trường-sa Quảng-đảo Vật-vờ tro bụi chúng sinh? Ngang dọc xương phơi... chừ... Nam-Việt Bắc-Bình! Cao thấp máu trôi... kìa... Đông Tây Bá-Linh! Ác-mộng ấy phải không còn dấu vết! Ai sẽ là người, cánh tay hào kiệt, Trong tương-lai, một sớm một chiều, Đủ sức hái cành hoa làm bút viết Những vần Thương-Yêu?

Saigon, tháng 11, 1965
--------------------------------------------------------------------------

  Quả Chuông Vĩ Đại


Dao chém lìa tay nhịp mõ rời Còn nghe niệm Phật tiếng lên khơi. Búa phang đứt cổ, đầu văng xuống Đất bỗng thành chuông rung khắp nơi.

28-8-1964
----------------------------------------------------------------------------

  Máy Đo Tự Động


Bánh sắt trong dây sắt chuyển đều; Làn dây nghiến xuống mặt đường kêu. Xe đi, nhả vết dài vô tận Xương máu dài ra cũng bấy nhiêu

Tháng 9 -64
--------------------------------------------------------------------------
 

Hiểu Làm Sao Nổi


Người giết người xong chạy tức thì Mồi ngon chẳng gặm chẳng mang đi. Rừng sâu cọp đói, nhìn kinh-ngạc Đảo mắt gầm lên, không hiểu chi!

Tháng 9-64
-----------------------------------------------------------------------

  Bóng Đó Hình Đâu


Quảng-đảo bom thiêu ngọc đá tàn Bóng ai cầm súng vẫn chưa tan Thiếu-Lâm chùa cổ, nghe trên vách Bóng Đạt-Ma ngồi bật tiếng than.

Tháng 9-64
------------------------------------------------------------------------

  Sứ Mạng Lịch Sử


Trời thủng, ngàn xưa đã có ngay Nữ-Oa đội đá vá liền tay. Sao tình nhân-loại chưa ai vá? Chẳng lẽ Nàng Thơ cũng ngủ say!

Tháng 10-64
-----------------------------------------------------------------------
 

Hỏa Lệnh Cuối Thu


Cửu-trùng gươm báu uổng trao tay, Trùng-cửu thơ trao lửa hẹn ngày. Một gió-mười-phương, mây ruổi gấp; Khói trong lò nữa, gấp theo mây!

Tháng 10-64
----------------------------------------------------------------------

  Hoa Trang Hương Sách


Nước Việt từ sau buổi xuống đường, Hoa Trang giòng-giõi ngát thư-hương. Trên bờ năm tháng soi thân phận, Liễu hết thời khoe họ Đế-vương!

Tháng 10-64
----------------------------------------------------------------------

  Ngả Nào Sinh Lộ


Tuổi xanh máu đỏ ngập sông dài Hỏi mỹ-nhân còn đẹp với ai! Mấy kiếp tiền-sinh hằn mặt đá Con đường sống, vẫn cửa Như-Lai!

Tháng 10-64
-----------------------------------------------------------------------

  Ác Mộng Đường Xa


Sớm trưa vượt thác với băng đèo Muôn dặm hình đâu bóng đó theo Hình bóng tách rời ư? Cũng lúc Đêm rừng mở sẵn miệng hùm beo!

Tháng 11-64
-----------------------------------------------------------------------

  Con Đường Tranh Đấu


Lửa âm ỉ cháy, sức thêm bền, Đốt ngắn vòng hương nhích mãi lên. Từng phút hương thiêu, vòng hẹp mãi; Về ngôi, điểm lửa vút như tên.

Tháng 11-64
----------------------------------------------------------------------
 

Tang Tóc Miền Trung


Mồ chôn tự-động thắt vòng dây Huyệt sóng đào lên giục gửi thây. Hàng vạn sinh linh vùi nước bạc, Non Hoành mặc-niệm trắng khăn mây.

Tháng 11-64
----------------------------------------------------------------------

  Thảm Cảnh Bão Lụt


Tiếng khóc hài nhi nước cuốn trôi, U-ơ còn tưởng vẫn nằm nôi. Biết bao giờ mới khô nguồn lệ? Bồ-Tát thiêu thân bẩy vị rồi!

Tháng 11-64
---------------------------------------------------------------------

  Trâu Nước Bão Trời


Con ôm cổ mẹ biết về đâu? Đâu cỏ thơm hương ruộng tốt màu? Mẹ chẳng rời con trong nạn nước, Tha hồ sóng rẽ luống cày sâu!

Tháng 11-64
---------------------------------------------------------------------

  Hai Ngày Tuyệt Thực


Giờ thụ-trai không điểm nữa rồi Can trường duy có nước mà thôi Lửa mười phương sẵn nung tâm trí, Khoảnh khắc làm cho nước cũng sôi.

14-12-64
----------------------------------------------------------------------
 

Tin Tưởng Muôn Đời


Chặt vụn cây kim mấy mặc dầu, Chỉ Nam chỉ Bắc vẫn hai đầu Cùng nương tựa để tìm phương hướng, Từ-tính nào ai hủy được đâu!

Tháng 12-64

No comments:

Post a Comment