Powered By Blogger

Cành Mai Trắng Mộng ( Trang 2 )

  18 ngấn lệ trăng soi
  19 bảng vàng hoa tím
  20 giây phút ngỡ ngàng
  21 còn đâu Vọng-các
  22 cúc nguyên tiêu
  23 người nữ hoa tiêu
  24 kẻ Việt người Tần
  25 bên nớ bên tê
  26 một phiến u hoài
  27 vọng phu
  28 vòng đua
  29 duyên mùa loạn
  30 trường ca Sát Thát
  31 ai có qua cầu
  32 tưởng niệm
  33 nhiều và một
  34 trăng loạn đàn sầu
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 

Ngấn lệ trăng soi
Móng hồng còn vết trên cao Hồng sơn còn ngóng thi hào Nguyễn Du. Sắc hương nằm lạnh thiên thu: Bạc phau gò tuyết, sa mù nửa vai. Sớm chiều mây trắng đeo đai, Giá băng nín thở cho dài nhớ thương. Tiếng Thơ từ buổi lên đường, Gươm đàn chắp cánh Đoạn trường ra khơi. Mang mang rốn biển chân trời, Quặn đau ruột đất rã rời vòng sao. Mở hai thế kỷ nghe vào: Xương khô lỗi nhịp máu đào, còn căm! - Nơi đâu trường dạ tối tăm Để nơi đâu có trăng rằm đầy trang? Năm mươi năm lẻ mơ màng, Đời ai rút ngắn cho Nàng Thơ xinh? Hồng bay để dấu bất bình, Tuyết non cao thoắt hiển linh ý thần. Nỗi đau ném chữ gieo vần Chín mươi chín ngọn xa gần còn in. Hồn Xưa không ngẩng lên nhìn, Mực đen giấy trắng muôn nghìn cũng hư. Lưng rùa trao nét Lạc Thư, Bắc phương đã sáng lên từ mặt sông. Trời Nam chẳng tuyệt giống hồng, Đầu non còn gửi lời thông điệp về!
(Sài-gòn, 1965)
--------------------------------------------------------------------
 
Bảng vàng hoa tím
xa tặng Kiều-Thu
Hà-nội xưa đưa nàng đi thi, Có chàng thư sinh tình rất si. Cài hoa lên tóc còn buông xõa Chàng nhủ người yêu: Chớ sợ gì! Hoa này, anh đã mất nhiều công Chọn ở hàng Bài, em biết không? Đề khó đến đâu hoa cũng thuộc, Rắc hoa đầy giấy góp là xong!... Nàng vui như tết, vào sân trường; Hi vọng bay theo lòng ngát hương. Chàng đợi nàng trong rừng Bách-thảo, Như trong huyền thoại của Đông-phương. Đưa nhau ríu rít đón nhau về, Ngày lại ngày... cho tình càng mê. Bài Sử Địa hay bài Vạn vật Cũng đều tươi nét hoa "Pensée"! Đường lên Hàng-Quạt gió say reo; Cửa Bắc giờ đây bảng sắp treo. Dựa sát vai chàng, hơi thở gấp, Ôi, nàng cảm động biết bao nhiêu! Người đi xem bảng mới lơ thơ, Nắng sớm đùa trên cỏ nhởn nhơ. Chàng dỗ dành: Em đừng nghĩ quẩn; Yêu nhau, thi có trượt bao giờ! Kia rồi: Hương phấn đã truyền tin! Đôi lứa mừng, quên cả giữ gìn. Tay khoác tay nhau làm cánh bướm Song song, lìa sóng cỏ, bay lên. Chợt nghe thiên hạ bảo thầm nhau: Người đẹp hàng Gai lại đỗ đầu! Chàng ghé bên tai nàng, riễu cợt: Áo hồng như thể áo cô dâu! Nàng xem hoa nở đúng tên nàng Rồi mỉm cười: Thôi, kệ bảng vàng! Anh hãy cắt bài thơ áo tím Cho em mặc nhé! Rất thời trang!
(Sài-gòn, 12-6-1967)
-------------------------------------------------------------------
  Giây phút ngỡ ngàng
Làm sao tôi nhận ra cô bé ngồi kia! Chiếc én đình Vương Tạ Giữa Sài-gòn Sáu Tư nắng phai mùa đố lá, Hoàng hôn dài lê thê... Lời giới thiệu dài hơn cả hoàng hôn: "người mới xa về..."; Tôi sững sờ, gượng cười... Hết thẩy đều xa lạ! Buổi họp nào đây? Có phải đường lên Sacré-Coeur hoa vàng tượng đá? Người về!... tôi nhắc lại tên; Dư âm đầy mạch máu vang rền! Thế ra đây là Huyền... tôi quen Trong lòng một chuyến đi Mở mặt đô kỳ ánh sáng Paris? Trong một chuyến đi Mà sông Seine cùng tháp Eiffel Mỗi xế trăng thu còn nhắc nhở thầm thì. Sao có chuyện hoang đường thế được? Nước da thùy mị kia... Gò má bình yên này... Và mái tóc... Ôi, tội tình cho mây! Là Huyền ư? Huyền của "Lang-thang"? ... Lạ nhỉ! Càng phi lý nữa là... Nhất là... Chiếc áo lụa phấn hồng ngoan, hiền, thướt tha. Hỡi áo đẹp "cô dâu bé bỏng" Ngươi thẹn thùng chăng nếp hải hà? Ôi! một tảng màu từ đâu lạc lõng Về bức tranh đằm duyên Bích Câu? Bức tranh tôi đã thuộc lòng Đến từng sắc điệu, Từng gợn bất ngờ trên nét thẳng đường cong! Hay là... một trong muôn nghìn vũ trụ song song Với trần gian này, từ lâu sương mờ khó loãng, Đột nhiên vừa đây cắt lầm vào một khoảng? Trời ơi, bức họa sơ nguyên! Đâu chiều-ánh-sáng đêm hoa nguyền? Tôi bước lên... như người máy... bước lên... Đồng thời giọng "cô bé ngồi kia" - người mới xa về - cũng trầm trầm rung lên. Tôi nín thở; chiếc đồng hồ đeo tay cuồng loạn đập. Kìa: những con đường, dọc, ngang, Từ môi nàng vút ra thẳng tắp. Chúng giao nhau, kề nhau, lìa xa, rồi lại gặp; Đây rồi, Huyền của "Lang thang"! Ngược xuôi bờ đá chân cầu Neuf, Trăng vỡ đầu sông... hẳn nhớ Hoàng? Đâu đó nước dâng... tôi giật mình, hụt bước; Vũ trụ quanh tôi bỗng thu hồi kích thước, à, đây phòng họp... người quen!... Nửa chớp mắt ngờ cung đàn lỗi nhịp, Bài thơ sai niêm; Nhưng, ai đã giùm tôi xóa phăng? Vết thương mở ra - may thay! - vừa đóng kịp. Tôi cười... không gượng nữa! ... tiến lên; Bàn tay siết chặt vọng tên Huyền.
(Sài-gòn 1964)
------------------------------------------------------------------
  Còn đâu Vọng-các
Ôi, Chùa Phật Ngọc mái long lanh; Đất Phật từng gieo hạt Ngọc lành...! Du tử dâng hồn lên Vọng-các. Gương soi chẳng chút úa màu xanh. Đê mê hài hán bước Triều-thiên; Nhạc nữ, hoa thần, hay Giáng-tiên? Cong vút bàn tay ai mở nhịp: Cánh Thơ, giàn Nhạc, đêm Hoa-viên. - "Thi sĩ từ đâu tới chốn này?" Tiếng ai vừa cất phới hương say? - "Từ đâu? anh cũng không còn nhớ, Em ạ!... chim trời mỏi cánh bay!..." Nửa hé vành môi, nửa ngập ngừng, Nàng xoay nhịp bước, ngả vòng lưng... Hỡi ơi!... đã ngấm men hồ hải Vào tận vùng cung điện kín bưng! Xiêm áo tần phi giợn ngọc ngà Lửa thiêu cuồng vọng khắp làn da... Phút giây nghe chĩu bên lồng ngực: Tiếng thở dài buông, rũ cánh hoa. Nàng gượng cười; trăng tắt đã lâu; U-cung đòi lại đóa Lan sầu. Mái đền cong vút tay ai đó? Ngà ngọc xin đừng hoen lệ châu! Xứ Thái mây chìm khóa bến Mơ, Vàng son thăm thẳm bụi tung mờ. Còn hương vương giả thơm giàn Nhạc, Hay cũng tàn theo đêm hội Thơ?
(Bangkok, 1964)
------------------------------------------------------------------
 
Cúc nguyên-tiêu
Thời gian ai ném tung hê Cho Hoàng-hoa lạc lối về mùa thu! Hỏi Mai trỏ giúp đường tu Vượt bao nhiêu ngả hoa cù đến đây Giữa đêm xuân mới trăng đầy Thơ buông nhạc nổi ngờ mây gác Đằng. Tri âm người cũ đó chăng? Ngàn xưa phong cốt lăng tằng mấy ai! Nguyên-tiêu hội mở Cầm-đài Lẽ đâu một phiến u hoài khép riêng! Hồn trăng hồn nước có thiêng Góp cùng hoa một cười nghiêng thành sầu! Mà ai Tư-mã Giang-châu Tiệc xuân đừng để hoen mầu áo xanh! Tỳ-bà-trang nguyệt ba canh Bóng hoa gợn sóng vây quanh bóng người.
(Sài-đô, 1963)
------------------------------------------------------------------
  Người nữ hoa tiêu
Em đến từ trang sách họ Bồ, Mang theo mùi đất ẩm xương khô? Hay là - ôi nét cười siêu thực! - Em đến từ tranh Picasso? Em đến từ đâu cũng chẳng sao! Từ tranh? từ sách? từ chiêm bao? Từ căn gác hẹp nhà bên nữa! Từ chuyến phi cơ hải ngoại nào! Vì anh chờ đã mấy pha phôi, Hồn nhập bao nhiêu xác tục rồi! Từng phút, hành trang anh sắp sẵn, Đăng trình riêng đợi có em thôi. Mình em biết lái thuyền không gian Ngồi xuống đi em, dạo bản đàn! Nhạc nổi "tề tâm"... Vòng điện tử Vút siêu tần số; Địa cầu tan. Sức nổ tung trời bỏ lại sau Hư vô... Hai đứa ngã vào nhau. Xứ Lưu-đày xóa rồi, em ạ! Huyền thoại từ đây một Trái Sầu. Còn thơm dư vị phút lên đường, Hé cặp môi đào: "Mộng cố hương Rối loạn trong vòng tinh tú ấy, Sao anh trời vẫn chẳng hai phương?" Thuyền vượt Ngân-hà chợt cảm thông: "Trần gian, anh có phút nào không Chờ nhau tới khóc?"... Lời chưa dứt Người nữ hoa tiêu lệ vỡ giòng.
(Sài-gòn, 1964)
-----------------------------------------------------------------
  Kẻ Việt người Tần
(Lời thiếu nữ )
Đâu nắng Trùng dương men bốc cao? Nơi đây thu bủa lưới mưa rào! Gối chăn lớp lớp tràn băng giá Từ buổi Sông chia Bến nghẹn ngào. Đá chẳng hai phen sầu dựng tượng Giữa mây huyền sử khói ca dao. Ngày qua, hồn mất dần tin tưởng, Xác cũng già đi mỗi tế bào... Anh ơi! Mười một năm rồi đấy; Anh nghĩ rằng em trẻ mãi sao? Cái tuổi tròn gương, trăng độ ấy Đã vơi nhiều lắm, chả còn bao! Chỉ còn như chiếc liềm đe dọa Cắt xuống đời xuân một sớm nào. Em sợ... khuya nay đèn sáng quá! Trên tường in đậm bóng gầy hao... Rồi mai rồi mốt tàn binh lửa Và cũng tàn theo cặp má đào; Lỗi ước, Mỵ Châu đành lệ ứa, Không còn can đảm rắc nga-mao!
(Sài-gòn, 1965)
-----------------------------------------------------------------
 
Bên nớ bên tê
Núi Sông ôm mặt chịu làm bia, Nhát chém ngang vai ngực đứt lìa. Nhưng vẫn trái tim truyền hiệu lệnh, Hai chân còn đứng vững vàng kia! Óc trong đầu có nhiều sao sáng Mười nhánh hoa tay nở nhất tề, Cũng chẳng ly khai nguồn máu được; Kinh Đô Tình Cảm mới là quê! Chừ nghe tiếng gọi vang lồng ngực, Đầu với tay nguyên vẹn trở về. Đã tỉnh mười hai năm ác mộng? Đâu còn bên nớ với bên tê...!
(Sài-gòn, mùa Phật-đản 2510)
-----------------------------------------------------------------
 
Một phiến u hoài
Cắt vào tâm sự thê lương Mỗi đêm rằm chuốt thành gương sáng ngời. Mặc ai gió lặng mây lười Trăng tròn ta gửi cho người tròn trăng. Bốn năm qua rồi đó chăng? Nàng soi vẫn thấy đêm vằng vặc xưa. Mắt xanh in bóng thuyền mơ Tóc hoa vàng đọng vần thơ gieo vàng. Trăng mười lăm gửi đều sang Tuổi mười lăm cũng mê nàng không đi. Biển Đông, con nước dậy thì; Lại tròn thêm một chu kỳ tối nay. Chim thần! hãy ngậm gương bay; Và sao Bắc đẩu! truyền tay về Đoài! Theo gương, hồn bướm lạc loài; Hoa soi bóng, gợn u hoài đến đâu!
(Sài-gòn, 1964)
-----------------------------------------------------------------
 Vọng phu
Lệ nghẹn đường trôi về biển Đông; Uổng mơ tin nhạn đón tin hồng. Nghe chăng? Núi dựng sầu chinh phụ; Nam Bắc hai phương đá ngóng chồng. Sáng choang sắt thép ngày ra đi; Kẻ ngược người xuôi, khinh biệt ly. Dứt áo, sông Tần hay bến Việt, Nào ai thao thức nhớ nhung gì! Ải Bắc vung gươm mộng đẹp thay! Giang Nam quăng chén vào cơn say... Rằng: Mai, ngựa ruổi vang rền sấm. Rằng: Sẽ vòm sao rụng xuống tay. Nhưng gái-yêu-chồng riêng thiết tha Được vui xum họp giữa quê nhà. Hiển vinh nào xứng niềm đau xót Trỏ bóng mình cho con gọi "cha"? Ôi mây Hoài-thủy khói Đồng-đăng! Khói bạc mây vàng một ánh trăng... Mây khói hai phương trời có biết Cũng mòn gan đá Vọng-phu chăng?
(Sài-gòn, 1966)
----------------------------------------------------------------
  Vòng đua
Rằng tất cả đều xoay chong chóng. Còn ai không biết nữa ư? Một chân lý, một cuồng lưu nóng bỏng Ngay quanh mình, ngay giữa nếp suy tư. Khác xa nhịp bước Nàng Thơ vấn vương tiềm thức, Hay trong mơ khúc múa Tinh Cầu. Vì chẳng có chi là nao nức Là rung động thực Vang xuống các bề sâu... Chỉ là Máy; Những đe dọa bên tai, những mệnh lệnh trong đầu Thúc đẩy mãi... đến bao giờ kiệt sức. Đêm lịch sử đã thăng bằng hai Đối Lực Cùng đi hoang và dứt bỏ cỗi nguồn. Sân khấu chẳng ngừng xoay, mỗi ngả kéo theo luôn Cả cuộc sống với trăm ngàn sắc diện. Để tranh quyền Đạo diễn, Quyền phân phát những đam mê, yêu, ghét, vui, buồn. Ôi Vòng đua lộ liễu Với cờ trận tung bay nhãn hiệu Của hai phường Con Buôn. Rằng tất cả đều rã rời đau nhức; Đang chờ nghe mê hoảng tiếng nhân ngư Tận cuối đường kia, đáy vực, Còn ai không biết nữa ư? Còn ai không biết nữa ư? Rằng tất cả đều căng ra hết mức. Da mặt trống mênh mang, dùi vung lên vỡ ngực. Bình minh đâu, thế hệ Không Cười? Hoàng hôn chăng, thế hệ Hai Mươi? Ai dám chắc dấn thân vào Thảm Kịch Là "hoa tàn lại thêm tươi"? Rất có thể vòng đua về tới đích Tượng trưng bằng Chấm Hết của Con Người. Nhưng chẳng lẽ còn ai không biết Rằng: trải đau thương, tất cả sẽ không lầm. Với một lòng tin bất diệt Sức Ly Tâm nào[1] cũng phải Hồi Tâm... Trăng đã mọc Thoáng hương trầm Giữa nhịp đời nhức óc Bài Thơ này cao ngâm.
(Sài-gòn, 1967) [1] chữ "nào" được thêm vào, dựa theo phần Đính Chính in ở cuối tập thơ
------------------------------------------------------------------------
  Duyên mùa loạn
Người đi ta cũng lên đường Trông ra khói lửa mà thương phong trần. Biết bao giờ gặp cố nhân Cho ta lại được có lần cầm tay. Lời kia xin tạc dạ này Mong đừng quên... lúc đổi thay cuộc cờ... Một đi nắng đợi mưa chờ Bèo mây ai dám hững hờ lòng ai! Đường khuya nhớ buổi kề vai Đèn khuya nhớ lúc canh dài trao yêu. Rồi đây khói sớm men chiều Say bao nhiêu lại bấy nhiêu ngậm ngùi. Nước non thề cũ khôn nguôi Giống đa tình vẫn muôn đời tình si. Người ơi, ta biết tặng gì? Mượn vần thơ gửi hồn đi theo cùng.
(Sài-gòn, 1963)
-----------------------------------------------------------------------
  Trường ca sát thát
Ðoàn người ấy mọc lên trong sa mạc, Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trưởng thành. Ðoàn quân ấy từ phương Ðông xuất phát, Lũ con nuông bất trị của Trời Xanh! Chỉ nhắp có hơi men "xung sát", Chỉ say sưa bằng những miếng "giao tranh". Nhằm hướng Phi châu, Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành, Biển ngập máu còn mang tên "Hồng hải". Cờ phất Âu châu, Ngựa dẵm tới đâu là xương phơi thịt giãi, Biển đeo tang còn "Hắc hải" ghi danh. Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát, Từ Mông cổ, Tân cương, đến Ba tư, Bách đạt, Trở về Hoa hạ, Yên kinh; Lũ "Thiên kiêu" từng bắc chiến tây chinh Lẽ nào để một phương không xéo nát: Trời Nam riêng cõi thanh bình! Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Ðát Ba chân trời đại lục đứng chênh vênh! Hay đâu: Bắc phương vừa quẫy đuôi kình, Rồng thiêng đã sớm cựa mình Nam phương... Trần triều hai Thánh đế Hưng Ðạo một đại vương; Hội mở Diên hồng đất nước vang rền khí thế, Hịch truyền Vạn kiếp trời mây sáng rực văn chương Ý gửi từ muôn dân, lệnh trao từ chín bệ, Thì: nắm đầu giặc như chơi cướp giáo giặc cũng dễ. Ðây: cửa sông Hàm tử bến đò Chương dương; Nuốt sao Ngưu chẳng phải việc hoang đường. Nam phương cường? Bắc phương cường? Máu đào loang sóng Phú lương mấy lần! Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần, Giang Hoài bốn tỉnh lại ra quân... Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa Tràn xuống Thăng long như cả một khu rừng bốc lửa Những "cây sắt", con nòi Thiết Mộc Chân. Giống Hồng Lạc giữa hai đường sinh, tử, Trông lên: sợi tóc buộc ngàn cân. Chợt đâu đó, xé rèm mây quá khứ, Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử Rọi về tia mắt tiền nhân, Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự, Cả đến thép vô danh cũng rực ánh gươm thần. Sát cánh vua cùng dân, Chung lòng tướng với quân, Phá cường địch... Cờ ai sáu chữ, Báo hoàng ân là báo quốc ân. Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự, Sông núi nào riêng một họ Trần! Bình Than lại nổi phong vân, Một gươm Tiết chế hai lần trao tay... Lời Đại vương truyền nín cỏ cây; Ba quân hào khí ngất từng mây. Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét: "Sông Bạch Ðằng tôi có mặt đây! Hán, Hồ... cũng đến chôn thây, Trước sau một khúc sông này mà thôi." Triều non bạc lên ngôi... giờ lịch sử! Và xuống ngôi... theo lệnh đại vương truyền. Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên Lấy Ðông hải làm bia nhằm bắn tới. Một ám hiệu! Kình nghê vừa mắc lưới! Thuyền vương sư liền quật khởi tranh phong Tay chèo nổi ngược cơn giông Tiếng hô "Sát Thát" vang sông ngập bờ. Duyên giang một giải Lau cũng phất cờ; Mùa xuân gần cuối Vẫn sóng bay hoa; Ngang trời động sấm tháng Ba Dọc sông chớp giật sáng lòa gươm dao. Cũng nơi đây Bạch Ðằng giang một khúc Ngô vương từng chém Hoằng Thao! Gió mây thôi thúc Quằn quại ba đào... Chợt tưởng niệm, máu càng sôi sục, Tinh thần quyết thắng bốc lên cao. Thế phản công làm giặc dữ nôn nao Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch. Nhưng số phận Hung Nô, người phương Nam đã vạch, Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông! Ðáy trường giang là cả một bàn chông, Nằm đợi sẵn, khi thủy triều xuống thấp, Ðoàn thuyền giặc lùi qua bị xô nghiêng lật sấp, Bị xé ra từng mảnh, vỡ tan thây... Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây: Quân tiếp ứng của vương sư ào xuất trận. Và: Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn Hiện ra như một vị thần linh; Chớp mắt trên sông bặt sóng kình! Thế là đã nơi này bỏ xác Lũ con nuông của Trời Sa mạc Khắp Á Âu từng vạn lý trường chinh. Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Ly minh, Thân bách chiến bỗng quay về hạt cát; Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Ðát, Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên... Chàm thích tay ai nét ảo huyền, Ngọn trào pha máu sắc tươi duyên. Chàm xanh, máu đỏ, nền sông trắng, Bức vẽ Ðông A vạn cổ truyền... Ấy ai qua chốn giang biên, Khói đầy khoang, giấc sầu miên lạnh lùng! Tiếng kình vang đợt sóng rung, Có nghe chăng? Có thẹn cùng người xưa? Riêng ai: nước cũ mây mờ, "Thái bình diên yến" câu thơ lệ nhòa. Tháng Giêng kỷ niệm Ðống đa Sông Ðằng kỷ niệm tháng Ba... mấy lần? Ðầu mùa xuân, cuối mùa xuân, Cánh tay Ðế Nguyễn Vương Trần nào ai?
(Sài-gòn, 1963)
----------------------------------------------------------------------
  Ai có qua cầu
(Lời thiếu nữ )
Hôm nay mình là cô dâu; Của hồi môn: chiếc gối sầu mang theo. Các bạn chê điềm gở; Mình cười nghe trong veo, Mà lạ chưa, má phấn đỏ lên nhiều! Tiếng gì như ngọc vỡ? Hay là hạt sương? Hay là châu lệ xe hoa nghiến nát trên đường? Mấy chị! làm ơn mở hộp gương, Ta cùng soi chút nhé! Kìa: bên Đông, bên Tây, giờ đây bao người vợ trẻ Xếp gối thành đôi ngồi đối bóng canh trường... Duyên chưa đầy năm một rằng yêu hai rằng yêu, Đã ngày tiễn đưa nhau trăm thương ngàn muôn thương, Để rồi đêm đêm Mênh mông chiếu giường... Hồn chinh phụ: khói lò hương Thả làm mây, trắng biên cương tìm chồng. Ngược chiều xe hoa sao nhiều xe thế nhỉ? Nét chữ hồng Tươi hơn môi mấy chị; Mà chẳng xe nào chở không! Những ai đó? ai còn? ai mất? Ai? Nào ai xương sắt da đồng! Lưỡi mình đắng như mật; Trăng nhà ai ngọt đâu! Bước vu quy đứt ruột lũ "qua cầu"... Ngây thơ là những cô dâu Gối mang "đủ cặp" cho sầu càng cao.
(Sài-gòn, 1966)
-----------------------------------------------------------------------
  Tưởng niệm
Mộng cá hình chim một vút bay Đã hay địa cực nối liền ngay. Không gian nuốt trọn vào tia chớp; Ánh bút trời xưa đẹp tới nay. Men nào cho cánh bằng say? Tuyết rơi lệ khóc lưu đày từng cơn. Biển băng nào chẳng cô đơn; Bắc Nam cũng một khối hờn khác chi! Núi Trường sông Cửu hãy còn ghi Dấu vết chim nghiêng cánh dị kỳ; Đất trũng xuống thành sông vạn dặm, Vọt lên thành giải núi uy nghi. Cửu Long giang vẫn tình si Với Trường sơn, tuổi dậy thì sánh duyên. Đầu non khi nhức tiếng quyên Lại soi lòng nước, mơ huyền thoại xưa. Ôi! hồn người đã Máy xa đưa, Ánh bút đầu tiên đẹp cũng thừa. Nhả ngọc, sao Khuê thường gọi bạn, Dài lâu riêng cặp Nước Non thưa!
(Sài-gòn, 1966)
-----------------------------------------------------------------------
  Nhiều và Một
Đỉnh Cô sơn có còn ai độc tọa Lắng khúc hoành tiêu? Đẹp tư thế "cắt trời xanh đứng một" Có còn chăng nhỉ cánh diều? Ai, nào ai trắng canh dài độc ẩm, Câu vọng ngôn mình tự nối điêu? Quán trọ nào chăng lẻ bóng Gối lên phù kiều?... Của Đơn Chiếc riêng tôi là người yêu Nhưng đã mấy ngàn thu nhớ tiếc, Mang mang hồi ức Thuở chưa chịu xé đôi hình Thái Cực... Tôi: thù nhân của Số Nhiều! Ôi bình minh rừng ban sơ! Tiếng suối lụa đánh đu trên mùi cỏ dại Màu dã hoa cùng nhạc nắng giao thoa. Tất cả tôi đều cất lời ca Hòa tan vào thời lưu ngưng đọng bất ngờ Những hạt men thi vị Chứa lòng đất vô tâm, lẽ trời phi lý, Tôi, một mình, nghe Hạnh phúc xưng danh. Nhưng rồi các anh Kẻ trước người sau bằng hữu... Và các em Đủ cung bậc yêu đương nổi chìm da thịt, Từng của ải giác quan như lưỡi câu vương vít, Tới nơi đây dạo bản hòa thân. Gái cầu Lim Nội duệ? Hay công chúa Huyền Trân? Hay nữ hoàng sông Nil? thương nữ sông Tần? Mười hai ngọn Vu phong mưa chiều mây sớm, Giấc mộng đơn thuần Phai ánh tà huân! Tôi nghe tan tác hồn hoa cỏ, Chết đứng cả tình hương ý gió, Hạnh phúc thay tên làm tượng đá trên ngôi Tự cắt chia ra ngàn vạn chỗ ngồi... Kìa: mũi nhọn Số Nhiều lạnh hơn thép trắng Dư vị bình minh đè nặng Bao trùm cay đắng trọn đời tôi! Cho nên của Đơn chiếc Tôi là người yêu, Và khắp đâu đâu và mãi mãi Tôi: thù nhân của Số Nhiều. Hỡi ơi, phải chi từ xưa Cuộc khiêu vũ đê mê tôi chỉ vòng tay một lần mở rộng Tập thơ vàng tôi chỉ một bài in Đường du ngoạn Á Âu mây gió hư huyền Tôi chỉ một phi trường hạ cánh! Sao tôi dại khờ nghe nàng danh ca Lần thứ hai mưa đổ phách Tỳ Bà? Sao tôi mê muội Nghĩ rằng Say Phải là Say đến cuối? Biết làm sao? phút giây này Tôi chỉ còn là một Số Không đều đặn Lăn mình trên dốc Tháng-ngày-qua; Độ dốc kia tăng với tuổi già: Bốn mươi... Bốn chín... Năm ba... Những Số Nhiều ghê gớm thật! Chẳng biết tôi cười vang Hay đang khóc ngất?... Mẹ hiền ôi! Năm nào xưa con đầy tuổi tôi Sao Mẹ chẳng vì con chiếc đũa thần khẽ nhấc Cho vĩnh viễn Thời gian ngủ giấc thôi nôi? Số con chỉ tốt lành Chỉ yên vui Khi nó là con số Một!... Tuổi Thơ... Tuổi Hoa... đời hiểu gì chăng? Là tuổi Không hai, Không lìa bỏ gốc, Là thơ Không ngôn ngữ đa đoan, Là hoa Không biết nở, không tàn, Như hoa sóng bay quanh mình độc mộc!
(Sài-gòn, cuối 1967)
------------------------------------------------------------------------
 
Trăng loạn đàn sầu
Con nước con trăng đôi mắt Nhạc, Chiều Phi Uyên các Đêm gác Bay Uyên... Trăng nước... ôi thơ tạc rượu nguyền! Cớ sao lếch thếch gối hàn uyên? Thơ mang hận núi treo đầy bức Rượu ngấm hờn sông chở nặng thuyền. Lửa đạn băm nhừ tới bóng; Cầm tâm đành phó mặc Gió bụi tiếng ca xuyên. Kéo tay thệ thủy liều trôi ngược May có gương lồng mặt trạng nguyên... Ôm cành chết rũ đôi hàn tước Ai hay nghiệp khởi từ duyên! Cỏ gà chưa nát Còn ngọc còn sương ngậm hạt Mời chân sáo đá mỏ vanh khuyên. Cây đa xõa tóc Cửa Quyền Nổi cuồng phong sợi độc huyền tay ai?
(Sài-đô, 1968)

No comments:

Post a Comment