Powered By Blogger

Ngồi Quán (trang 2 )

----------------------------------------------------------------------------------------------------------
  26 Một sợi giống nòi
  27 Nhạc rỗng không
  28 Ba hồi triêu mộ
  29 Một trong hai nửa
  30 Vượt nguy
  31 Bặt khóa buồng xuân
  32 Hỏi ai người khóc
  33 Xúc động cuối năm
  34 Huế cảm

Nhị Thập Bát Tú
  Một sợi giống nòi

Máu loang Đất Mẹ đêm ngày Nhựa thơm còn đọng mình cây Độc-huyền. Bầu khô chợt bốc hơi men Âm thanh từng bậc trèo lên đỉnh Trời. Hành-hương theo Nhạc về nôi Ngàn thu một sợi Giống-nòi vừa rung. Để còn rung tới vô cùng Sợi dây đơn chiếc giữa vùng đa đoan. Sóng Cà-mau khói Nam-quan Đầy vơi khói sóng… Chưa đoàn viên ư? Độc huyền cầm… vang tâm tư… Đã nghe cốt nhục đau nhừ Trường-sơn!


Sài gòn, 1969
--------------------------------------------------------------------------------------------------------

  Nhạc rỗng không


“Lưu Lưu Hồ… Xế Xang Xừ” Chiều dăng mưa, Nhạc lên từ ngón hoa. Trái khổ qua mơ chùm thiên lý Phút thần giao hương vị một giàn Mơ giường bình khung Mơ giấc bình an Lìa dây tơ, mỗi âm đàn Truyền hơi… bao mảnh tro tàn hồi sinh! Trúc bên đình vấn vương Cửa Phật Bóng in sâu vào đất ai hay? Đàn rung ngọn… bóng lung lay, Bóng lay, một giải Đất này chuyển theo… “Xừ Xang…” từng giọt trong veo, Dư ba gọi thức cánh bèo trầm luân. Đàn gieo… xa như gần Trăng treo… mộng mà thân! Kéo lê hoài kiếp Lưu-dân “Lưu Lưu Hồ…” nẻo Hành-vân lệ tràn. Thoắt đâu giường bình khung Tròn say giấc bình an Vòng hợp hoan vừa nghe bướm liệng Dây vô đoan nẩy tiếng vô thanh… Ôi Cầm Trăng, mộng đã thành? Rỗng-không giọt Nhạc gắn lành Quê-hương!


Sài gòn, 1969
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ba hồi triêu mộ

Người-đi-tu-Phật chớ buồn Giữa mùa Con-số-không-hồn tác oai! Tờ a, b… cuốn 1, 2… Giòng bao nhiêu… khoản mấy mươi… rành rành Và… trên án sẵn ghi hình, Thép gang rạch chữ Bất-bình càng sâu. Người-đi-tu-Phật chớ sầu, Mặc cho Con-số khoe mầu nhiệm xuông! Trăm vòng dây Tội hoang đường Cũng không giam nổi Tình-thương bao giờ. Con-người về đất về tro, Lửa còn dâng, nước vỡ bờ còn reo Thành cơn gió đuổi hùm beo, Cơ duyên sẽ uốn mình theo, ngại gì! Người-đi-tu-Phật ra đi Có buồn chi, có sầu chi… hỡi người!

Tháng Giêng, Kỷ-Dậu
------------------------------------------------------------------------------
Một trong hai nửa

Mặt tôi bị cắt làm hai mảnh Theo chiều ngang; Tôi nằm đây, còn mũi Nhô lên cao đỉnh núi phập phồng, Hơi thở vào nghe máu chảy muôn sông. Và tôi còn miệng Với đủ cả đầu môi trót lưỡi Để than van gào gọi Qua từng cơn bi phẫn nổi tam bành Át giọng bầy chim mà tốc độ vượt âm thanh; Cũng dìm luôn cung bậc Của đêm đêm tên lửa vút cầu vòng Của sớm chiều trưa đạn bom rền mưa bấc Ở gần…xa… chung quanh. Khúc Loạn-tấu phương Ly bấc hay chì sôi sục? Nhặng giòi nhung nhúc, Hai bè ư? Ba… bốn… cả trăm bè! Mặc dầu tôi không còn tai để nghe. Cũng như không còn mắt, Chỉ thấy được bằng chùm gai Siêu-giác-quan Bằng dùi nhọn hoắt Thần-giao Bằng cây kim Vô-để-thức Đâm sâu mỗi một tế-bào. Đời sống của tôi – một trong hai Nửa-mặt Có cần chi bồi dưỡng điểm tô; Gan ruột ai kia đã diều tha quạ rỉa? Thịt xương nào bơ vơ? Tôi chỉ biết tôi là Hiện-diện Không toàn diện mặc dầu; Tổi chỉ nghĩ tôi là Bất-biến Không coi vạn biến vào đâu; Vì tôi còn Tiếng-nói! Ngôn-ngữ tôi là tim là phổi Vô-hình-dung Trơ trơ cùng móng vuốt; Trái khổ đau và lá hổ ngươi Sẵn sàng tơ viễn cảm Từng phút giây khao khát Tự-do viết bằng chữ hoa. Nên tôi nằm đây rung lên thành vần điệu, Thứ ngôn ngữ có hào quang trực chiếu, Ngàn xưa bảo đó là THƠ; Ước vọng của tôi: hơi thơ vang mặt đất Sao cho loài người – nếu không thì loài vật Thoáng dư ba ngoảnh lại bồi hồi Nhìn cái nhìn anh em vào nửa mặt tôi. Cái nhìn ấy sẽ mang đầy giá trị Một chất lọc Đủ cho bầu sát khi vây quanh tôi còn thở được phần nào Để tôi làm lễ Nhương-sao Giùm hết thẩy, Bạn hay thù cũng vậy! Để tôi nguyện cầu Thiên-chúa Cùng đấng Allah Cùng đức Phật Cho mặt Trời mặt Trăng mặt Đất Hay bất cứ mặt nào Kể luôn mặt Nước Từ nay sẽ chẳng bao giờ Bị cắt Bị chia đôi như những miếng mồi!

Sài gòn 1970
-----------------------------------------------------------------------
Vượt nguy

Nổi lên, bắp thịt đà-công! Gân căng hết mức tăng bồng đó nghe! Hồn ma, kìa những thuyền bè Từng đau dưới búa trên đe quãng này. Con quái vật lại chiều nay Vươn ra ức triệu cánh tay giết người. Vò ngang vặn ngược tả tơi Đứt tung mạch nước, da trời, lòng sông… Đường gân thớ thịt đà-công Nổi lên đi!... Chiếc thuyền không thể chìm; Nỏ-thần máy đặt trong tim Đủ thiêng hơn vuốt loài Kim-quy nào. Loạt tên buông, máu sôi trào; Vững tay chèo chống, ba đào phải tan. Hỡi đà-công, hãy bền gan! Gió kia phải trút hơi tàn trước ta. Rồi mai xanh bát nước trà Nắng sương một bóng la đà ngồi câu, Vượt nguy nhớ thuở Đương-đầu Trà xanh mới có chiều sâu Giống-nòi, Sương vây mới đẹp chỗ ngồi Giọng Đò-đưa mới cao ngôi nắng vàng, Câu hò Mái-đẩy duyên giang Mới thôi son phấn Thời-trang thẹn thùng.

Sài gòn, 1969
-----------------------------------------------------------------------------
  Bặt khóa buồng xuân

Hoa quen mặt gió nhiều năm qua, Gió cũng chờ phiên giáp mặt hoa. Tường nắng vách mưa ngày tháng lụn, Tin xuân lại ghé bến Cành-thoa. Phơi phới vườn thơm, gió khát khao; Gió đang sung sức, vườn không rào. Mái Tây đồng lõa, gương soi chếch, Cửa hé rồi, xuân mở động Đào. Lá liễu mày ai, mắt lá răm, Khuôn trăng mười sáu, ngực trăng rằm; Lạ thay, một đóa dài phong nhụy Trước gió Đông về... năm lại năm! Miệng héo dần theo lòng khắc khoải, Năm nay rồi sắp thành năm ngoái. E khi chiều xế, tuyết thay tơ, Không cả chút tình thương nắng quái. Ôi lòng hoang đảo, mộng chon von! Trắng mộng, tâm tư biết có còn Lắng tiếng chim xanh hơi gió biếc Như bao người đẹp tuổi đào non? Riêng vẫn đào năm ngoái nở tươi Hoa cuồng loạn đón gió Đông cười. Giai nhân đành kiếp lan u uất, Từng lá gươm sầu nét hổ ngươi. Kẻ vô-hạn-hận không là gió! Xuân đến trà mi, đời tự bỏ Ngôi chín tầng cao, thẳm đáy hang, Cùng ai gửi chút hương vò võ? Kìa: ong buớm đã náo tường Đông; Gió cợt hoa cười khắp núi sông! Nào thấy bóng ai...! xuân khoá kín, Thiều quang ngập máu Đổ-quyên hồng

Sài-đô Tết Mậu-Thân
----------------------------------------------------------------------------
Hỏi ai người khóc

Ngọn đèn soi đáy chữ Vàng rung mãi chén thề Hỡi ơi rừng ngôn ngữ Vòng vây giam hoa lê! Ta van tiếng Sở giọng Tề Giẽ ra cho bóng hoa kề hồn trăng. Hai trăm năm vời vợi Đường xa hiện pháp đăng. Trời xưa dìu Tiếng Mới Về cả đêm nay chăng? Gió mây chìm nổi điệu Bằng Sông Ngân rụng cát bến Hằng đầy sao. Hoa còn mơ giãi bóng Hồn trăng vẫn gửi trao. Riêng đây hồ ngọc đọng Nghe gươm mài xôn xao. Lòng băng tan vỡ lệ trào Bật lên tiếng khóc thi hào Tố Như

Sài gòn, 1965
-------------------------------------------------------------------------------
Xúc động cuối năm

Năm ngoài nơi đây nhoẻn miệng cười, Tin sương đồn đại: mặt hoa tươi… Năm nay cuộc Thưởng Văn dừng bước, Chẳng thấy hoa đâu chỉ thấy người. Người đón Nàng Thơ sắp hiện thân, Người khen bút pháp ấy tinh thần, Người trao tên họ, người ghi chép; Người, những người… Sao vắng cố nhân? Có phải chiều xưa cũng Tất-niên, Thanh phong lai hề hoa yên nhiên; [1] Lầu cao từ đấy xuân sâu thẳm, Hoa đã theo ai về cõi Tiên? Cài đầu hoa Cúc… [2] lại hoa Đào, Gió vút đường mây đẹp biết bao. Đủ cả vàng son trên mái tuyết, Rừng xanh ải tối thỏa tiêu dao… Chơi xuân đất này không cỏ non, [3] Thơ không vàng nữa, ấn không son. Hỡi ơi, lòng chợt đau như cắt; Một nụ cười xuân cũng chẳng còn.

Sài-đô chiều Hai Mươi tháng Chạp, năm Kỷ-Dậu (27-1-1970) [1] Thơ cổ “Thanh phong lai cố nhân” nghĩa là: gió êm dịu thổi đến người quen xưa. Hoa yên nhiên: Hoa cười tươi thắm. [2] Thơ cổ: “Cúc hoa tu tháp mãn đầu qui” nhà thơ Đông-Hồ đã dịch Nôm: “Cài đầu hoa Cúc trẩy về chơi”. [3] Câu này dịch tư 1 câu tập cổ của Đông-Hồ tiên sinh: “Xuân du thử địa vô phương thảo”.
------------------------------------------------------------------------------
Huế cảm

Giường thấp giường cao ruồi nhặng bâu Xuân sang đối diện Quỷ-không-đầu Mơ rồng ấp trứng sông Hương tủi Lắng vượn gào con đỉnh Ngự sầu Lăng miếu gần kề lưng chó sói Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu Miền Nam câu hỏi trăm năm trước Ai trả lời cho Huế… bởi đâu Bởi đâu non nước ấy tan tành Lửa đỏ mây đen thắt chặt vành Nặng dẫu bằng non thân cũng gục Rửa cho hết nước máu còn tanh Kim Long quẫy đứt hơi sương gió Bạnh Hổ gầm vang nhịp sắt đanh Từng tiếng ngân dài chuông tháp Mụ Hồi thanh rền rĩ súng liên thanh. Súng liên hồi nổ… kịch ai dàn Đã một trăm năm chẳng hạ màn Lần lượt vai trò rơi ấn kiếm Dằng dai sân khấu ngập bùn than Sông theo Phật hẹn giòng vơi lệ Núi chống Trời tin đã vững gan Gió lọt… bỗng dưng trên mặt giấy La đà bóng trúc… Huế bình an Huế bình an chứ… đẹp bao nhiêu Chẳng thấy không gian đủ bốn chiều Cành trúc gió đưa về gốc Lạc Câu hò mái đẩy tới trời Nghiêu Mong người một nước soi gương cũ Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều Phủ lấy cho càng cao giá ngọc Thơ ai từng dệt tấm thương yêu Dệt tấm thương nên nhớ ngược giòng Chín thương mười nhớ đấy Châu-phong Cố-đô Sử chép nhiều tên gọi Trực-bắc Thơ dành một hướng mong Nối lại thuở nay liền thuở trước Nghe ra thành Phượng có thành Long Cả Hoa-lư với Mê-linh nữa Xác bướm đè muôn tảng đá ong Đá ong xây giữa mộng đêm vàng Sầu Cố Đô lên vút tượng Nàng Thành quách trải bao nơi lập quốc Miếu đường thêm một chuyến cư tang Ngọ môn vỡ tiếng rên gò đống Bảo đỉnh sôi cơn giận xóm làng Nửa giấc lạnh tanh rồi vạc thuốc Cửa Sài nghe đạn réo vang vang Đạn réo vang vang… lửa bốn bề Như thiêu giường bệnh cháy cơn mê Sốt dâng mạch loạn càng u uất Máu chảy ruồi bâu chợt não nề Cũng đất Hương Bình đen cánh quạ Hẳn mây Nùng Nhị trắng phương quê Xác thân mòn mỏi cùng dâu biển Còn chút hơi Thơ gửi vọng về Gửi vọng về ngôi Sầu Cố Đô Tan tành ngọc đá kể chi mô Chiều Vân-lâu xuống hoài ư bến Gương Tĩnh Tâm soi vẹn nhé hồ Đối bóng vẫn mơ màng bóng hiện Biết ai mà nhắn nhủ ai vô Ôi bài Huế Cảm xuân dâng ý Nghe có hơi thu họa dưới mồ.

Sài đô, Xuân Mậu Thân [1] Bài này gồm 8 đoạn theo thể thơ Liên-hoàn Liên-vận. Có thể đặt 14 chữ sau đây làm tiêu đề: “Hoa hạ thi thành đăng hạ bút; Loạn trung Huế cảm bệnh trung-nhân”. [2] Câu 1 của đoạn 2 phỏng thơ Nguyễn-Đình-Chiểu (Non nước tan tành hệ bởi đâu).
-------------------------------------------------------------------------------
đáng tiếc cho ai

Tỉ phú, vương hầu, với mỹ nhân; Thơ hay cũng uổng những câu thần. Bên kia lăng kính Giàu, Sang, Đẹp, Nhận diện làm sao được giả, chân!
----------------------------------------------------------------------------
bảng đen thời đại
Thày chăm dạy Toán, dạy Văn-chương; Mỗi buổi trò ngoan ngoãn tới trường. Đâu biết chợ hoa quanh lớp học, Lời chim phấn bướm dạy yêu đương!
-----------------------------------------------------------------------------
Bao năm hơi tiếng
Đã quen giọng-nói thuở cầu thân, Quen khúc mê hồn, điệu giật gân. Quen cả vòng tay, quen nhịp bước. Hơi bom tiếng súng cũng quen dần…
-----------------------------------------------------------------------------
Trò vui thế kỷ
Trận đánh không người được kẻ thua. Biết ai là giặc, ai là vua! Chiều hôm Thế-kỷ trò vui mới: Tiếp máu triền miên cuộc chạy đua
------------------------------------------------------------------------
Một kiếp phù dung
Vừa da trắng nõn, áo nâu non, Đã chuyển màu sang yếm đỏ son. Bóng xế, đời hoa ngăn ngắt tím Bay theo huyền hạc cánh chon von.
2-1-69
---------------------------------------------------------------------------------
Sự thật hiển nhiên
Hỏi lòng tay, hỏi gan bàn chân, Và hỏi lên đôi má, rất gần! Chưa lạnh thấm da, chưa đổi tiết, Làm sao đã có được mùa xuân?
3-1-69
------------------------------------------------------------------------
Di tích loài người
Tháp sắt nào đây? Trụ dẫn đầu Đẩy lên sức lửa đốt năm châu! Đằng kia: tháp chữ Kim, từng đã Vùi lửa tham tàn xuống đáy sâu.
4-1-69
-----------------------------------------------------------------------
Sứ mạng phi thuyền
Non trăm dặm cách mặt trăng già, Sao chịu về không, hỡi bộ-ba? Nếu phải người thơ này, nhất định Mang về bến cũ gốc cây đa!
25-12-68
---------------------------------------------------------------------------
Hương màu tri âm
Biết nhau từ nhuốm rừng phong, Trắng cành mai chẳng phai giòng thơ xưa. Mai còn giáng bút, hương đưa, Màu thăng hoa, tuyết còn thưa cuối trời.
(Thơ tặng Bùi Giáng, 25-12-68)
----------------------------------------------------------------------------
Tiền kiếp ai đây
Cậu Bảy Phù Dung trên bến sao Lưng dài nghe mỏi thú nằm cao Giường mây bước xuống nơi bùn bụi Lê kiếp người Thơ mộng suối Đào.
Sài-đô, 1-1-1969
------------------------------------------------------------------------------
Mẹ mèo dạy con
Truyền nóc nhà lên đỉnh khói sương, Mẹ con lầm lũi chuyến hành hương... Còng lưng mài tiếng gào quê cũ Đâm thẳng ra ngoài hệ Thái Dương.
5-1-69
----------------------------------------------------------------------------
Ác mộng nào hơn
Ôi kiếp người trong giấc ngủ ngày Bùn ngâm sặc óc máu loang tay! Đêm đêm vẽ lại vòng hương phấn, Chưa ngớt màu run cánh bướm say.
6-1-69
-------------------------------------------------------------------------------
Giọt lệ sao Ngưu
Búa nện vang vang lò sát sinh; Lắng tai, mừng tủi, trâu nghiêng mình. Quê trời sấm gọi ta về hẳn? Lệ rỏ, ngôi xưa vụt hiện hình.
7-1-69
-----------------------------------------------------------------------
Cái nhục làm người
Chỉ giống người trên mặt địa cầu Đang tâm hành hạ dập vùi nhau. Bỏ xa rắn, rết, hùm, beo, sói... Nhân loại: điều ô nhục đứng đầu!
8-1-69
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

No comments:

Post a Comment