Ngồi quán
Tuổi Hoa ngồi rũ Quán Chùa,
Đường ngang dọc những lá bùa rủ rê...
Lửa chen hơi gió tạt về
Lọt tai xác ướp: Trận Mê-hồn nào?
Chỉ e vàng chói cửa vào
Cửa ra: núi kiếm rừng đao mịt mờ.
Đáy ly từng giọt bơ vơ
Theo nhau rụng xuống giấc mơ đen dần.
Trông ra gái Sở trai Tần
Giòng xe cuồng chữ nối vần thơ điên
Nốt-đàn nghe toàn màu đen
Chợt xanh chợt đỏ mắt đèn mồ côi...
Thấy chăng "dạ lệnh" truyền rồi,
Làm sao - Chủ quán - nuốt trôi sầu này?
Chớ cười duyên, Chớ xoa tay,
Rằng: Mê-hồn-trận ai bày, hỏi chi!
Sàigòn 1969
--------------------------------------------------------------------------
Nữ thần hôm qua
Em là cô gái cấm cung
Giữa đêm đóng hộp giữa nhung mở màn
Tính từ phân khối hồng nhan
Để lừa ngay cả Thời-gian vào chuồng
Sá chi ngựa vía trâu cuồng
Trở bàn tay bắt hay buông mặc tình
Bao phen thử lại phương trình
Không cho nghiệm số mang hình trái tim.
Chiều nay bóng đá chân sim
Tiếng ve gọi cái duyên chìm với xuân
Nhát dao chợt nhẹ đồng cân
Trong tia mắt của Nữ-thần-hôm-qua
Thôi rồi, mỗi tấc thịt da
Xuống thang nhiệt lượng trên đà nấu nung
Hộp đêm vỡ lở dần khung
Kéo theo kích thước màn nhung gẫy lìa.
Quanh phường Dạ-lạc hôn mê
Vòng-đai-sao-rụng chưa hề có tên
Vượt sông Ngân tới cầu duyên
Phút giây đổi hướng phi thuyền người Thơ
Lửa ma trơi tắt bao giờ
"Em đây!" một vọng âm mờ ngàn sau.
Sàigòn 1969
------------------------------------------------------------------------------
Mối tình đầu
Anh là một trong năm mươi
Đứa con theo Mẹ ngược vời sông Thao
Em xuôi dòng máu người Dao
[1]
Đổ về đây... mấy tầng cao Ba Vì
Đất lành có hợp không ly
Mỗi xuân sang, một dậy-thì ngát hương
Vòng eo Thái, nước da Mường
Sớm khuya lòng suối mở gương chứa đầy,
Thấm vào cho bóng càng say,
Bóng em, cô gái Dao này, đó anh!
Gặp nhau nghiêng hồn rừng xanh
Thịt xương có dựng Loa thành cũng xiêu
Má đào em, lửa nào thiêu?
Cháy loang tận gốc, dây diều đứt phăng...
Giống Rồng-Tiên phải anh chăng?
Môi truyền môi tới em rằng: Nòi Thơ!
Cánh hồng bay nát mưa tơ
Nẻo vu phi, hái giấc mơ dọc đường...
Tản Viên này bóng mây vương
Kìa non Bạch Hạc trải giường bình khung.
Anh ơi, màn vây chưa xong...
Đu tiên ta đánh mấy vòng đã nao!
Sông Đà sông Lô sông Thao
Cùng sông Nhị đẩy lên cao tiếng hò
Núi rừng hang suối tung hô
Dài hơi Ba Bể sóng hồ vang xa...
Chung nhau ngày MƯỜI tháng BA
Những ai xuống biển theo Cha khác gì!
Khói mây Hùng-lĩnh còn si
Tâm tư còn nét chàm ghi: Việt-thường.
Chơi xuân nhớ tổ HÙNG VƯƠNG
Nhịp đu còn bổng tình thương chưa chìm.
Sàigòn, ngày giỗ Tổ năm Kỷ-Dậu
[1] Chữ Dao cũng có chỗ viết là Yao.
--------------------------------------------------------------------------
Niềm đau tấc cỏ
Ôi, Cỏ mang tên Người Đẹp!
Nét mày hay nét gươm đây?
Còn có sử xanh nào chép
Ngoài đôi nét máu xanh này?
Nhưng đọc cho tròn huyết tích,
Mong gì lũ sóng sông Ô!
Dựng lại cho tròn thảm kịch,
Mong chi dãy đá bên mồ!
Đá loạn khéo bày nên trận,
Sóng kêu hệt tiếng vong hồn;
Chưa dễ vào sâu nỗi hận
Mọc từ xương thịt héo hon...
Ai biết chiều nay gió vỡ
Thành muôn "mảnh hát" không tên
Phảng phất hơi Nam giọng Sở
Là gươm Người Đẹp múa lên?
Từng nét mày ngài cong vút,
"Cố Viên" hai chữ hằn ngang.
Lòng cỏ u hoài đã trút,
Xa xanh rồi hiểu cho nàng.
Sàigòn, 20-10-68
Cỏ Ngu-Mỹ-Nhân mọc trên mộ Ngu-Cơ bên bờ Ô Giang, lá sắc như gươm.
Ai qua lại đó hát giọng phương Nam, tức thì lá cỏ múa lên, vì quê Nàng ở
đất Sở. Hát giọng Bắc, cỏ bất-động.
----------------------------------------------------------------------------
Tìm lại chiều cao
Hồn hoang ruổi vó ngựa Chuy
Vượt trăm vạn ngả biên thùy về đây.
Người yêu xưa vóc hao gầy
Đồng tiền đôi má đong đầy lửa gai.
Lầu trăng thắt mấy vòng đai
Hào quang Lưu-niệm trên ngai đã mờ.
Tìm đâu suối Nhạc giòng Thơ
Gối thêu quằn quại giấc mơ Sống-còn.
Mơ sao ngày tháng lăn tròn
Tầm thường qua những lối mòn bình yên.
Hỡi ơi, thần tượng hoa niên!
Trong bom đạn, cánh nàng tiên gẫy rồi!
Nhưng mà anh... nhưng mà tôi
Khác chi nàng? Cũng thế thôi: tầm thường!
Có chăng lành lại Vết-thương
Đất trời kia lại hiền lương ngọt ngào
Sông dài biển rộng tay trao
Mới mong tìm lại chiều cao cho Tình.
Sàigòn, Cuối thu 1968
-----------------------------------------------------------------------------
Tiếng đó người đâu
"Tiếng nói Thi Ca miền Tự-do"
Mười hai năm trước giữa Sài-đô
Cất lên cao vút, nghe đồng vọng
Cả khối băng kia đáy ngọc hồ,
Chắc cũng nao nao dòng Bến Hải
Cùng ba mươi sáu Phố-phường xưa.
Đêm nay, vẫn tiếng ai sang sảng
Trời hỡi, mà sao nghẹn gió mưa?
Vĩ-tuyến nào đây toan đứt phựt?
Lâu rồi căng thẳng với dây Thơ!
"Đây Tao Đàn", sóng truyền thanh nổi,
Ai có nghe chăng lọt đáy mồ?
Ai có thấy chăng hồn nước réo?
Cửa Hàn sương quyện khói Sông Lô...
Người-mê-hơi-đất nay về đất,
Hiểu nghĩa vầng-trăng-huyết-dụ chưa?
Hai-mươi-tám giọt sao mờ,
Tàn đêm lửa quỷ bất ngờ hài tiên.
Ờ, đây mới thực người quen:
Khói thơ là áo, hoa đèn là thân.
Với ta, chỉ một nàng VÂN
Kể chi xác mượn, phong trần bấy nay.
Hé môi giọng chập chờn mây:
"ĐINH HÙNG, tên họ ai đây thế HOÀNG?
Cơn trường mộng, kiếp đi hoang,
Ném xa kỷ niệm ngoài khoang phiêu bồng.
Quên nhau họa có vân mồng.
Còn tên còn họ là kho ng còn gì!"
Ngẩng trông, khói lợt hàng mi;
Phút giây mình đã quên đi chính mình.
Nhưng quên người, hỏi sao đành?
Mấy luân hồi nữa cho lành vết thương?
Ngâm câu "Yếm tác nhân gian ngữ"
Giục ngọn đèn thu nở thịt xương.
Đôi ta lại một chiếu giường,
Cười rung bóng Quỷ Vô-thường ngoài kia.
Tại Sài-Đô, khởi viết đêm 23 tháng 7 năm
Đinh-Mùi (1967); hoàn tất đêm Trung-Thu
-----------------------------------------------------------------------------
Đá trông chồng
Quên hết lời em dặn cũng nên
Chẳng ai lên chỉ núi sầu lên.
Dài cơn mộng đá xuân không tuổi
Nặng khối tình xuân đá có tên.
Gươm Cửu-trùng bay tia chớp loáng
Chùa Tam-thanh vọng tiếng chuông rền.
Mưa tuôn lệ thấm sâu ba ngấn
Cả một trời oan đội ở trên...
Đầu rơi còn mãi gan liền
Đá lăn lóc cả ngoài biên Hữu-hình
Tròn thêm mãi khối Kiên-trinh
Gái-trông-chồng đã hiển linh theo chồng.
Sàigòn, 1967
---------------------------------------------------------------------------
Đồng tâm
Nhìn sâu vào đáy mắt em
Xuyên qua ngàn vạn bức rèm thủy tinh.
Giấc yêu đương bỗng hiện hình…
Giao thoa từng nét lung linh Địa-đàng.
Nai tơ dệt bước hồng hoang
Suối rung tay ngọc vòng loang tới trời.
Cùng hoa chắp cánh giong chơi
Bướm đưa vũ khúc về phơi phới rừng.
Sương gieo đồi cỏ men bừng
Câu thơ tình viết trên lưng vừa tròn.
Dìu nhau mẹ mẹ con con
Trăng sao tuổi hãy còn non cả bầy.
Chói loà dạ hội đêm nay
Đêm đầu tiên có Đông Tây hai đầu.
Và… chưa có vợ chồng Ngâu…
- Chẳng bao giờ có! em cầu nguyện đi!
Giật mình… cô bé tình si
Ngẩng lên chớp chớp hàng mi… thẹn thùng.
Sài gòn, Trung thu 1968
-----------------------------------------------------------------------------
Song ca
Trai Sở mòn gối hạc
Sân Tần lệ trắng đêm.
Dâu Tần xanh kiếp khác
Gái Sở lưng ong mềm.
Tiếng hát Sở u uất
Lầu Tần muôn trượng cao.
Bọn tù không ngục thất
Nhìn nhau một nghẹn ngào…
Các em – tù nước Sở
Tự biết mình hơn ai –
Ca lên nhé, thương nữ
Hai bờ sông Tần-hoài!
Sài gòn, Trùng Cửu Mậu Thân
----------------------------------------------------------------------
Nghinh hôn
Đường đi vào giấc mộng lành
Những gai cùng lửa tung hoành đó đây.
Lửa kia chàng bảo điềm may
Thiếp xin được giữ gai này làm thoa.
Dừng xe hoa mở tiệc hoa
Đê mê nhịp vũ la đà tóc hương…
Bỗng đâu sáng rực đêm trường
Vòng sao đã kết thành vương miện rồi.
Lại nghe Trái Đất bồi hồi
Thổ-tinh vừa gửi về đôi nhẫn mừng.
Trông lên thăm thẳm mấy từng
Mơ thuyền ai ghé ngập ngừng nét thu.
Sương loan tin: làng Ôn-nhu
Chờ đôi hiền phụ hiền phu trị vì.
Rồi mai ngọt cánh vu phi
Có gầu Trăng-mật, sá gì bể Đông!
Làm dây sẵn mối tơ hồng
Ươm trong thần thoại “giống Rồng nòi Tiên”.
Sài gòn 1968
----------------------------------------------------------------------------
Thế là
Thế là con ác nhả sân bay rồi bổng lên dần
Thế là bầy rắn nhổ neo vừa phun nọc độc
Thế là đoàn bọ hung sang số lao đi
Thế là cánh tay người buông rũ liệt
Thế là xong… là hết…
Thế là không còn chi…
Ôi Chiến-tranh làm biệt ly!
Như bọt vỡ trên sông trên biển
Như bụi nát nhừ trên đường ra hỏa tuyến
Như trên vòm trời tan-tác mây.
Bao mảnh vụn nổ tung cứa đứt chuỗi đêm ngày
Của Tình-yêu và Tuổi-trẻ!
Thôi thế là không còn chi.
Thôi thế là xong… là hết.
Về hay chẳng về ư, nào có nghĩa gì!
Về để ôm người yêu bằng một nửa vòng tay?
Về để nhìn người yêu bằng trọn vẹn đêm dày?
Ta van mi, Dấu-hỏi,
Dừng ưỡn ẹo thân hình rõ mãi giọt cường toan
Vào những tim mòn óc mỏi!
Sài gòn, 1968
------------------------------------------------------------------------
Hoặc thoại
Bỗng dưng mọc ý hoang đường:
Trăng mâm cao, hẳn mười phương cỗ đầy.
Trăng lên mâm cỗ tự bày,
Rắn ơi, đừng vẽ cho mày thêm chân!
Con trâu ăn cỏ đồng gần
Là hơn! “Ngưu quỷ Xà thần” ai tin?
Hỏi ngay súng đạn bom mình
Xem cô gái Việt ưa nhìn đến đâu!
Cô toan bẻ gãy sừng trâu
Rắn say nọc độc tới cầu bẻ răng.
Rắn già rắn cột vào săng,
Trâu già trâu lột da thằng bán da.
Nay mai đến lượt Cuội già
Thì sao?...
… Cuội đáp: một nhà đoàn viên.
Da trời thịt đất lành nguyên,
Thoại Trung-thu, “hoặc” ư?...
“huyền” đấy ư?
Sài gòn, 1970
-----------------------------------------------------------------------
Đời thi nhân
Ban mai, cảm hứng đầy không gian
Chẳng rõ là men, phấn… hay đàn.
Từ chân tóc răng thịt da cùng theo giõi
Nắng vào hôn trong máu… hòa tan.
Sức đẩy từ đâu dâng lên dìu dặt?
Buổi trưa về, xuống tận đáy cô đơn
Nằm ruỗi thằng nếp mưu toan, và khép chặt
Cửa tư duy, chờ diện kiến tâm hồn.
Rồi chiều tới… đêm tới…
Thoắt nghe mình như một sợi tơ bay.
Nửa khuya rồi, nao nức quá,
Tưởng có ai trao thần bút vào tay.
Chữ hiện dần, hiện dần, theo chẳng kịp,
Đã hình thành bao kiến trúc đam mê.
Có phải một bài thơ vừa được viết?
Ta hay ai tác giả bài-thơ-không-đề?
Nhưng… còn hỏi làm chi!
Tác phẩm đã tan thành sương khói,
Thành hương gọi, màu ru, thành nhạc đệm,
Môi trường mềm cho giấc-ngủ-không-mơ.
Giấc ngủ vô cầu vô nhiễm
Của người say cuộc đời thơ.
Phong vũ chẳng cần đo, thiều quang chẳng đếm,
Một ngày say từng phút từng giờ,
Một đời say ngoài cả nhịp thiên cơ!
Sài gòn, 1-1-1969
---------------------------------------------------------------------------
Với Đinh Hùng
Bên này chiếu, nửa vời hương;
Bạn ta ư, khói nửa giường bên kia?
Nhìn sang: gối dựng thành bia,
Hồn chưa vượt bóng qua lề chiêm bao!
Hay từ ngọc vỡ thu cao
Đã năm ba mảnh cõi nào rụng rơi?
Thoắt đâu ruột bấc rối bời
Đèn khuya cháy giợn tiếng người: Hùng đây!
Kể chi khói mỏng hương gầy;
Hoa treo bấc, vẫn xum vầy bướm quen.
Mạch Thơ chung một tim đèn;
Máu đi hoang, lửa nối liền hai ta.
Đáy đêm lạc giọng cười ma
Tưởng như dầu cạn tới da thịt mình!
Lên non rồi, khúc Vong-tình;
Khói Phi-yên, chớ bay hình cố nhân!
Nằm đây gieo mộng vào thân
Mà nghe mộng nở ra vần Ác-hoa.
Phế-vương – lời nói không ngoa –
Vớt hương bùn dựng lấy tòa Mê-cung.
Thơ còn ngâm, lửa còn rung,
Còn say, ta với Đinh Hùng còn nhau.
Sài gòn, 1968
-----------------------------------------------------------------------------
Lời ru Hoà bình
Đêm nay vừa giáng sinh
Một sự thật.
Ba chàng phiêu lưu từ trong lòng hộp sắt
Đã truyền rao:
Hoà bình
Không ở trên… mà ở chung quanh…!
Hãy ngằm nguyên tư thế hưởng yên lành,
Hỡi bào-thai-sinh-ba!
May mắn cho mi được trở vào bụng Mẹ,
Thì nằm yên, nằm yên…
Địa-cầu hay Nguyệt-cầu ư? rồi quên!
Và, một điều thôi, hãy nhớ…
Phải nhớ nhé, bào-thai-sinh-ba,
Chỉ một điều duy nhất:
Đừng bao giờ chui ra!
Nhịp võng ru xoay tròn, xoay tròn…
Không ở trên… mà ở chung quanh…
Hãy nằm yên, dàn trải,
Hỡi các chú bé con, ngự-lâm-thời-đại!
Vì chính ta là Nhịp Tồn Sinh,
Lời ru Hoà Bình.
Cuối năm 1968
--------------------------------------------------------------------------
Đục trong
Chợ Tết, mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc.
Đời đời vẫn kết giao
Nguyền lánh xa thế tục
Thân sao nghiệp nặng nề
Cõi trần mãi chen chúc
Nhắn nhủ cùng danh hoa
Chớ e hồng tủi lục
Giờ đây bạn các em
Ruột cũng đau từng khúc.
Lũy nào xưa tốt tươi
Cổng nào xưa ngoạn mục
Liên miên khói lửa này
Dám đâu mơ hạnh phúc.
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Gắng giữ tiết cho ngay
Giữa bao là câu thúc
Còn khó hơn lên trời
Biết đâu chẳng ngã gục...
Chợ Tết, Bến Thành xuân
Lòng thơm tràn cảm xúc
Gió theo nắng đào lên
Tin hoa không ngớt giục.
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Thôi đành giữ hương trong
Vẹn thiều quang chín chục
Hàn-mai với U-lan
Một lòng như Đạm-cúc.
Sài-đô, Tết Mậu-Thân
------------------------------------------------------------------------
Gương đen
Gắng chùi giầy cho thật bóng đi em!
Nghĩ ngợi gì kia chứ?
Lau xong giầy của tôi
Em còn những đôi giầy khác nữa.
Đừng nghe bất cứ ai cười nói chung quanh!
Đừng nghe nhịp quay cuồng ngoài lộ!
Cũng đừng nghe tuồng Cải-lương trong máy phóng thanh!
Hãy tự nhủ đây là sa mạc
Và dỗ dành cho thính giác ngủ quên.
Một đứa trẻ nghèo như em
Ngồi chịu trận giữa vòng vây ảo ảnh
Cần phải dồn hết tâm tư vào con mắt
Đồng thời với cả đôi tay làm việc không ngừng.
Ừ, hãy nhìn cho kỹ nhé!
Mở lớn mắt ra coi:
Giầy của tôi đã bóng như gương.
Em soi vào đó
Sẽ thấy ngay thân phận
Của chính em và những đứa cùng loài
Nghĩa là cùng lạc loài trong thảm kịch.
Gương bạc gương vàng ư? Cổ tích
Phần các em chỉ có gương da đen bóng mũi giầy.
Sài gòn, 1968
---------------------------------------------------------------------------
Thiên đường hồng
Bỏ hoàng hôn lại đằng sau
Máy già nua ngậm chuỗi sầu lê đi…
Ôi Thiên-mã, nóng lòng chi?
Lồng ra khỏi số Tử-Vi được nào!
Ngoài kia tinh tú lên cao
Xót xa chăng một vì sao trong này?
Sắt rung điệu nhạc khô gầy
Con sên-lửa nuốt từng cây số ngàn
Gẫm mà thương cái đêm tàn
Bánh xe nghiến chậm Thời-gian đau nhừ.
Dặm trường say nhịp lắc lư
Đất hay sóng, hỡi Nam-tư bạn già?
Tối mai còn bạn còn ta
Thủ đô Belgrade ai là Trích-tiên?
Bao giờ chân bước đảo điên
Ngựa Thơ vút cánh lìa thiên đường hồng.
Belgrade 1965
--------------------------------------------------------------------------
Tình đẹp
Đôi ta một lớp một trường
Từ năm ngoái năm kia thời gian trôi gấm vóc
Bao nhiêu chữ viết hoa đều nở mến thương.
Màu mực lá cây xanh tuổi ngọc
Màu phấn trắng tinh ngờ phấn thông vàng.
Anh nhắc em bài toán khó
Em khoe anh bài văn hay
Tình-yêu chỉ nói bằng đuôi mắt
Phượng vĩ chờ mong đỏ tháng ngày.
Nẻo tới trường: nét mềm tranh lụa
Bậc thang lên lớp học: bản đàn nhung
Anh dìu em nhè-nhẹ bước
Một bản hoà âm hai nét song song…
Nhưng rồi hôm nay
Chùm hoa bên cửa lớp
Đàn bướm trên sân trường
Cánh nín thở vô cùng ngạc nhiên.
Có chút gì mầu nhiệm giữa không trung
Vừa tỏa khắp!
Chàng trai tan ra thành một giòng Lịch-sử
Cô gái nhập vào hai chữ Núi Sông.
Sài gòn, 1968
-----------------------------------------------------------------------
Đào sâu trang sử
Khổ đau tràn bốn cửa Thành
Dư ba chợ Bến, hồi thanh xóm Chùa.
Ngựa Thời-gian phá trường đua
Hí lên cho bước Giao-mùa nhịp theo.
Đường Hai-mươi lắng chuông gieo
Gối tay thế kỷ nằm theo hút buồn.
Dưới kia thác lũ mưa nguồn
Lệ hay mạch nước ào tuôn vỡ bờ?
Lật coi, giòng máu chưa mờ,
Bạch-thư dầy mấy muôn tờ đất đen.
Sài gòn, 1968
----------------------------------------------------------------------------
Nói với em
Có ai giúp được gì đâu em!
Cha mẹ chúng ta đã về nằm dưới mộ
Còn lo rằng không yên;
Cho dẫu lá vàng chưa vội rụng
Thì sớm khuya sương nắng bồi hồi
Cũng chỉ đến cành khô lay lứt thôi.
Nước chẳng của ai – như từng đợt con rơi –
Vẫn chảy qua cầu…
Đâu phải vững niềm tin là điều kiện đủ!
Thấy không? Em và anh từ lâu rồi thương nhau,
Ý thức Giống Rồng Tiên thấm vào xương tủy
Ngay khi chập chững đánh vần,
Rồi lớn lên mộ đạo Từ Bi
Rằm tháng Giêng chưa một lần quên
Theo hương khói lên Chùa lễ Phật,
Và gần đây những đêm Giáng Sinh
Chuông Giáo-đường ngân dài cao vút
Đẩy tới vô biên kích thước truyền hình,
Chúng ta ngồi mơ theo tuyết gieo hoa trong gió
Lòng Bác Ái hòa rung oa oa máng cỏ
Cho mãi khi trở lại đường viền
Của khung đời thường nhật
Của khung trời ngột ngạt
Qua sắc diện thanh âm người xướng ngôn viên.
Ôi lẽ phải từ trái tim
Có tung ra mà không cơ duyên
Nẩy mầm bén rễ!
Hơi chết chóc mù bay rũ liệt mọi mầm xanh
Với bụi tro tàn khốc vây quanh
Làm nghẹt thở
Trời từng vuông xám ngắt màu da che mặt kinh thành,
Và đất gieo mầm
- Nói ra càng tức tưởi –
Có còn đâu tâm địa hiền lương
Của bốn ngàn năm vun sới;
Đất ruộng đất rừng
Đất ôm chân các phố phường què quặt
Chẳng đâu là không rách nát
Không mỏi rừ nghe thớ thịt buông xuôi
Tự hiến thân làm những con mồi,
Đất mới khai sinh thì trơ sỏi đá
Phận con hoang náu hình sau mặt nạ
Lầm lì khô cứng đến chua cay
Mạch đau tủi rút lui trong cùng tột bề dầy
Đợi dịp nổ bùng cơn địa chấn;
Đêm gọi hoài tên chiều Thế Tận
Ngày chiêm bao hẹn giấc Đổi Đời
Còn mong gì THƠ ươm hạt nữa em ơi!
Đành rằng đôi ta không bỏ cuộc
Nhưng từ đây ngôn ngữ thiên thần
Khó còn bay xa với hào quang Sách Ước.
Trọn vẹn tương lai nằm trong móng vuốt Hạt Nhân
Nói chi nguồn cảm hứng đơn thuần,
Rồi sẽ Máy làm ra
Cả từ bộ óc
Còn vườn đâu cho THƠ nở hoa!
Em hãy nắm tay anh nhảy dài một bước
Sang hẳn phía bên kia bờ Tận Diệt
Nghĩa là bên kia chấm hết,
Giòng lịch sử này ta viết lại thôi em!
Tiếc gì trang giấy nháp,
Mà cũng chằng cần ai trợ lực;
Khởi điểm sẽ là THƠ trường thiên
Chứ không phải Địa-đàng
Và Hai Người Đầu Tiên không tự nhân lên.
1969
-----------------------------------------------------------------------
Trước sau gì
Trước sau gì đôi vòng tay
Cũng buông nhau để ôm đầy nhớ thương
Anh buông khối ngọc hoang đường
Phút giây ngờ bốc thành hương đa tình
Em buông sức sống thần linh
Thịt da vừa hiện nguyên hình trẻ trai.
Buông tay rụng hết ngày mai
Hỡi ơi từ ngón lên vai giá đồng!
Rồi chiêm bao có siết vòng
Chỉ là ôm một số-không hão huyền.
Chẳng ai vào núi ra biên
Dứt nhau tăm tích cũng biền biệt thôi
Từng đoàn xe đã mù rồi
Trong tay cầm vé khứ hồi bằng dư.
Trước sau gì đêm tương tư
Của đôi mình cũng đen như đất này
Sâu như vết-buồn-hôm-nay
Dài như bất tận cơn-say-máu-người
Nuốt dần thế kỷ Hai-mươi.
Em và Anh… khóc lên… cười lên đi!
Trước sau gì… trước sau gì…
Sài gòn, 1969
---------------------------------------------------------------------
Trong da ngựa
Bờm dựng lên, ngơ ngác
Toàn thân con ngựa già…
Có hồn ai ký thác
Cho ngựa bọc trong da?
Qua Chợ Cá – xưa là Mả Nguỵ -
Hơi bùn tanh lửa quỷ mang mang,
Ngựa say chở hồn đi hoang
Kéo lê sầu giữa hai càng xe hư.
Đường Cây Mai lở lói
Những kim ốc rồi ư?
Sao nghe hành khách nói
Thời trang là “Suy-tư”?
Nếp thi thư gập ghềnh lưu huyết
Đường mang tên Sương Nguyệt Anh chi?
Sài-đô – viên ngọc phương Ly
Ôm trong lòng, có còn gì hào quang?
Nét rêu mờ Hắc Bạch
Hai ngôi lầu cư tang…
Công-tử thời hống hách
Thấm gì nay dọc ngang!
Máy nổ vang đoàn xe bọc thép
Hồn chưa quen sức ép bên tai
Chợt tung bốn vó chạy dài
Đêm xiêu… Ngựa vượt ra ngoài huyền cơ…
Vỗ đôi cánh thần thoại
Mọc lên từ bao giờ
Tiếng nhạc còn rung mãi
Khoảng cách hai giòng Thơ
Sài gòn, 1969
---------------------------------------------------------------------------
Sầu môi đào
Chiều chiều tô lại ngấn son
Bờ môi nghe đã chớm mòn chưa em?
Xuân nào vẽ đậm trái tim
Hồn trai mười sáu chết chìm đường cong
Dặt dìu ven biển triền sông
Thuyền ai mơ cánh phiêu bồng dừng đây
Men theo mềm như cơn say
Dốc hồng hoang đổ tháng ngày về đâu?
Ôi làn môi gái chưa sầu
Nét son tô vụng buổi đầu phân vân
Làm cho mê mệt gương thần
Mà xuân trôi cũng có lần mòn sao?
Hơi ca từng đêm như bào
Lấy đi êm ấm rót vào bốn phương
Môi dần khô héo sắc hương
Em ơi còn hỏi gì gương bây giờ
Vẽ lên càng thấy duyên mờ
Son nào trả lại ngây thơ tuổi vàng?
Cánh thuyền năm cũ mang mang
Ải xa mây nổi hồn chàng trai xưa.
Bờ môi chợt động gió mưa
Đêm nay tiếng hát sầu đưa về nguồn.
Sài gòn, 1969
--------------------------------------------------------------------------
Sớm giục đường mây
Một… Hai… ! Lệnh bất thành văn
Nghe rùng rợn đếm từ căn nhà mồ.
Bến Hà-mô thuyền neo sương sớm
Giấc cỏ hoang lì lợm bấy lâu
Thoắt thôi từ đáy khoang sâu
Nổi cơn bi phẫn điên đầu cành hông.
Quyết băng sông vượt hồ ra biển
Ếch nhái kêu tiệc tiễn vang trời
Cô em tiếng tỳ lên khơi
Sé bao nhiêu lụa cho vơi nhiệt tình!
“Bất đắc bình tắc minh” là thế
Giọt máu chen giọt lệ giọt đàn
Cung Xế Xự bậc Xừ Xang
Thấm men giòng nước đẩy vàng sắt lui.
Từ trên mui trăng sao đã rớt
Lại mọc lên theo đợt âm ba
Ngàn xưa đưa khách xa nhà
Mới nghe châu ngọc sáng lòa giang biên.
Lần đầu tiên mặt hoa hốc hác
Vẻ phu nhân đài các gấp trăm
Cớ gì che nửa tối tăm
Gái trà mi vẹn gương rằm tiễn ai
Vẫn không ngừng đếm “một… hai…”
Lệnh từ đâu? Phép nào sai ma Mường?
Nghẹn ngào sương kìa đêm giẫy chết
Thuyền bắn đi còn vết giương cung
Ghi vào hơi ca
Một dấu tay khùng
Ghi vào bờ hoa
Một dấu than chung.
Sài gòn, 1969
No comments:
Post a Comment