Powered By Blogger

Bút Nở Hoa Đàm ( Phần Thứ Ba )


Phần Thứ Ba
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

  Nối Lửa Từ Bi


dân-tộc ta không thể nào thua! đạo-pháp ta đời đời xán-lạn! dầu trải mấy qua-phân ly-tán, bị áp-bức, phao-vu, bội-phản, nhưng vẫn còn Núi còn Sông, còn chót vót mãi ngôi Chùa. hỡi kẻ sống không tim! Kìa muôn người chết không mồ đang ngồi dậy – chẳng sức gì ngăn cản – nối tiếp nhautrong một lời hô: "trả lại chúng ta ngày PHẬT-ĐẢN! chấm dứt đi mau ngày QUỐC-NẠN!" và từng mảnh thịt xương rã rời bom đạn vùng đứng lên gào thét vỡ sông hồ, khắp bãi biển hoang liêu khắp rừng cây rách nát: Đà-nẵng Đà-lạt Sài-đô Huế-đô... vùi nông, những nắm xương khô từng oan-thác, cũng đội mồ bước lên. mỗi Phật-tử bên kia bờ thảm-sát dầu vong-thân vẫn chí sắt son bền, đang trở về trong tình thương bát-ngát theo nhịp cầu chuông mõ nối hai bên. hồi thanh sáu ngả vang rền! cuộc tranh-đấu vượt ra ngoài giới-hạn của TỬ SINH… Mầu-nhiệm Pháp Vô-biên! suối Hùng-lực mấy muôn thu chẳng cạn, nước cành dương tẩy xóa mọi oan-khiên... chúng ta may còn sống lẽ nào chưa xúc động? chưa lắng nghe tiếng gọi triền miên đã ngân vang SÁNG TỐI cả hai miền? ôi, từ Phật mở kỷ-nguyên, tháng tư nguyệt chẳng đoàn-viên, cớ gì? tiếng niệm Phật chảy dài trang lịch sử, mười phương tín-đồ tăng ni trái tim thày QUẢNG-ĐỨC vừa rung lên phơi phới Đạo-kỳ. ức triệu người hôm nay lòng sáng rực sau ba năm nguyện nối LỬA TỪ BI... giòng trôi mưa nắng kể chi; lửa dâng cao, gió huyền-vi sang mùa! lẽ thường: ngôi Chúa ngôi Vua dựng trên súng phải tiêu vong dưới đạn chỉ còn lại tinh thần Nhân-bản vằng vặc NÚI SÔNG chót vót NGÔI CHÙA. nên dầu bị qua-phân ly-tán, bị áp-bức, phao-vu, bội-phản đạo PHẬT ta vẫn đời đời xán-lạn! dân VIỆT ta vẫn không thể nào thua!

-------------------------------------------------------------------------------------------------

  Nhắn Qua Biển Lớn


gan ruột bên kia biển Thái-bình quặn đau theo bước mỗi tù-binh. ví đem mở rộng lòng thương ấy đủ thắng rồi... đâu phải viễn-chinh! ôi, mở lòng thương ra bốn biển, xương khô thịt héo cũng hồi-sinh! ngàn xưa thiên-hạ xưng Vô-Địch kẻ xót người như xót chính mình. thu hẹp xót thương vào giới-tuyến đồng-bang đồng-chủng với đồng-minh là thu hẹp lại vòng giao-cảm; hoài sức truyền thanh tiếp-vận hình! cùng xót cùng thương nhau một kiếp phù-du... may đổi nhục làm vinh. địa-cầu mai mốt không Nhân-Loại có ích gì chăng lũ vệ-tinh?


20-7-66
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
 

Chuông Chùa Diệu Đế


Huế-đô sợi tóc buộc ngàn cân thành-nội vang rền súng ngoại-nhân sườn núi mở tung gan Phật-tử lòng sông nghẹn uất máu lương-dân nhưng chùa Diệu-Đế còn cao vút thì bóng Ma-Vương phải xóa dần mình chẳng giết mình ai giết nổi ngàn thu văng-vẳng tiếng chuông ngân ngàn thu văng-vẳng tiếng chuông ngân vàng gợn dư-linh thuở Lý Trần ai đó cũng thương nòi xót giống mà sao nỡ lấy giả làm chân sóng sông ngửa mặt từng rung cảm vách núi nghiêng tai cũng thấm nhuần mình chẳng cứu mình ai cứu nổi chuông khua mười góc biển trầm-luân chuông khua mười góc biển trầm-luân định-lý-hai-chiều của Phú-Xuân rằng tự giết mình hay tự cứu tuy là nghiệp đấy cũng là thân gió lên đỉnh Ngự mây về gốc bụi lắng sông Hương nguyệt tới tuần bia đá mai đây lòng nặng chĩu Huế-đô sợi tóc buộc ngàn cân


phật lịch 2510 (t.l. 20-6-66)
--------------------------------------------------------------------------

  Biển Câm Nổi Sóng


tặng Luna 9 [1]

tuổi thế kỷ SÁU MƯƠI vừa lẻ SÁU lịch mặt-trời ghi: tuyết rã băng tan. lắng trên giòng Thời Gian: mùa Bảo Bình nghiêng đổ vách đêm sâu, con đường Sữa [2] đăm chiêu... cũng là đêm đầu tiên mùa xuân Á Châu mừng gương nguyệt tròn theo lịch của người đời thượng cổ lấy Mặt Trăng làm điểm tựa chon von; như đã lấy Nông làm Thần trỏ các ngôi sao đặt tên: Cái Sàng, Cái Đấu, nghe tiếng nổ tinh vân thành nhạc lúa vang ròn. phải rồi, đêm nay là NGUYÊN-TIÊU của Hương-Cảng, Đông Kinh, Vọng-Các, Sài-Gòn. mặc dầu trăng xế ngàn dâu hay đứng trên đầu vằng-vặc hay đang vượt chân trời lấp ló sườn non... lưng chừng canh khuya TRÁI HỢP-KIM ghé bến vòng sao du mục. từ lúc ra đi hướng nổi phương chìm đã mấy thời gian đằng đẵng; nay mới được buông xuôi đường thẳng ngược lẽ "Hóa sinh" tự bóc mình ra để phút chốc mang hình một đóa hoa, giữa khoảng chân-không xòe bốn cánh rơi xuống NGUYỆT-CẦU chẳng khác trùng-dương hạ cánh âu... nơi ngày xưa thi bá Nguyễn Tiên Điền với Cao Chu Thần, Lão Đổ, Trích Tiên vẫn gọi là "Cung Quảng" vừa thoáng rung khuôn mặt đá mềm. khí-quyển bao quanh vô cùng nhẹ loãng sao có được âm thanh? chỉ thấy điện-ba dài ngắn tung hoành. ôi, TRÁI kết thành HOA ắt nở HOA thành NỤ và NỤ chuyển thân về HẠT nguyên trinh! Nguyệt Cầu muôn thủa vệ tinh của Trái Đất, chưa một lần hội kiến; khuya nay khối hợp kim này đại diện tới gieo mầm tương-cảm đó chăng? sứ-giả kia ơi, còn rung động nào bằng? Nhưng KHỐI HỢP KIM chẳng là Địa Sứ; thông điệp còn lơ lửng trên cao... những hình ảnh bấy lâu vùi sâu huyền sử đã vươn lên từ ngôn ngữ ca dao, từ thần thoại, gốc tâm hồn Nhân Loại, theo sát đường bay, vút hướng muôn sao. hoa SẮT THÉP bị sáu bề vây bủa, một từ-trường dệt mau như tơ tầm sóng lúa, kìa bóng Cây Đa, kìa nếp Vũ Y, này Chú Cuội, này con trâu, này bờ ao bãi cỏ, và cối thuốc Trường Sinh, trắng phau Ngọc Thỏ; mộng Thanh-bình siết chặt mãi trùng vi. hạt CHIẾN TRANH gieo? - Tàn lụi tức thì! "gieo rắc không tàn lụi, riêng có HẠT TỪ BI" đáy Biển Câm bật thành tiếng nói truyền qua ruột Khối Vô Tri, gửi về giải núi Oural trùng trùng điệp điệp gửi cả về con sông dài Mississipi... ngàn thu bóng nguyệt chẳng khuyết câu thề, vẫn tròn như vai thần tượng đầy như hy vọng gái quê. đâu đó Tháp Chàm đang hủy diệt hay Khải Hoàn Môn đang hôn mê? sóng THƠ bảy sắc hồng-nghê mỗi đêm trăng tỏ rung về trần gian.


4.2.66 Ghi Chú: [1] Luna 9, hay Lunik 9, là phi thuyền không gian Liên-Xô, vật thể nhân tạo đầu tiên đáp nhẹ nhàng (soft landing) xuống mặt trăng ngày 3 tháng 2 năm 1966, lúc 18:45 UTC (tức 1:45 sáng giờ VN ngày 15 tháng Giêng năm Bính Ngọ) tại Biển Bão (Ocean of Storms). [2] con đường Sữa: la Voie Lactée, tức dãy Ngân Hà (Milky Way galaxy)
-------------------------------------------------------------------------

  Đâu Là Chân Sắc


muôn thủa Không Gian đã tự dành lấy một màu XANH. mặc dầu cũng chia đi cả trăm ngàn sắc điệu từ Xanh phới bích ti đến Xanh rờn lục liễu và Xanh lam mặt biển sườn non. màu da Nhân Loại chỉ còn Đỏ, Trắng, Vàng, Đen, bốn cửa lên trời của tháp Babel hay bốn con đường thẳng tắp chưa đủ sức tìm ra điểm gặp qua mớ bòng bong ngôn ngữ trần gian? thịt xương thế kỷ Điêu-tàn vẫn gói ghém bằng muôn thắc mắc. có thật ĐỎ cùng XANH là hai Đối Sắc? nên giống người da Đỏ với trời Xanh một thủa gác chân nhau tương đắc cùng say sưa nếm chung làn khói đặc giơ cao chiếc điếu Hòa Bình giữa khu rừng gái trinh. nhưng họng núi đêm nào xưa lưu huyết... màu Hồng Ngọc còn than van bất tuyệt: Colorado... Colorado... tiếng bi thương vọng khắp mảnh dư đồ. hay màu TRẮNG mới là Tổng Sắc? như Bạch Hải, Bạch Sơn, tuyết in mây vằng vặc. màu chứa bên trong đủ mọi màu cả ngoại hồng, cực tím cũng gồm thâu. ánh sáng Trắng hiện nguyên hình mỹ nữ cung ngà điện ngọc rèm châu. tam lăng kính đã làm nên huyền sử Đại Tây Dương hai ngả một sân chầu... ruổi sát khí quanh làn da ưu đãi người giống Trắng mở đường lên cắm trại, nắm trong tay chìa khóa Biển Dâu mà chẳng riêng chi ở mặt Địa Cầu. nhưng nếu hỏi: Sắc nào là Chính Sắc ở trung tâm, nơi phân phối hào quang? thì mấy ngả văn minh trầm mặc theo khói nguyệt với hương trà gợi nhắc sẽ rung lên chỉ một tiếng: VÀNG. giữa khoảnh khắc đá Trường Sơn bày thế trận đảo Trường Kỳ tro bụi đi hoang; Hán Sở hay Tần Tấn? Trường Thành đo ý Trường Giang. ôi Sắc Hỏa Hoàng! màu da lửa sống hiên ngang của Siêu Thoát, của Suy Tư, Nhập Định, giao thoa những nét gươm đàn những nét chữ bên đèn say tỉnh. nếu lại hỏi: Sắc nào trên Tuyệt đính? hẳn sẽ dồn vang nhịp trống ngũ lôi như vó ngựa đập liên hồi thúc sa mạc sầu miên cởi giấc mê truyền kiếp mắt ngẫu tượng cháy bừng lên thông điệp bao nhiêu kẻ vong thân từ phút nằm nôi đều được ánh kim cương mặc khải rồi. đai Xích Đạo tiếc gì hoa rải sắc vì chỉ có màu ĐEN là Tuyệt Sắc mà thôi... trang giấy còn khoe TRẮNG, khoe VÀNG khoe ĐỎ nữa sao? khi đã giòng ĐEN rót mực vào cũng là rót cả một niềm đau rưng rức. nổi Tiềm Thức, hay chìm Ý Thức? vẫn Thiên Thu nhận diện U Buồn. chợt vỡ tan tành mọi thứ khuôn từ những tế bào nằm im phăng phắc nghe thoáng gợn bước chân Di-Lặc. hai mươi lăm thế kỷ nữa rồi đây trái tim Nhân Loại sa lầy men kỳ thị máu pha bùn đã sặc... bao thành kiến với bao nguyên tắc ào xuống, chen nhau một chuyến đò. những tiếng kêu loảng xoảng những dây trói dằng co tranh nhãn hiệu là Vua hay là Giặc... chừ mới biết đâu là Phương Bắc khi địa bàn gẫy vụn dưới cơn giông. chừ mới biết đâu là Chân Sắc Khi nấm độc dành cho HOÀNG với HẮC cũng sắp mang đi cả BẠCH theo HỒNG. trời XANH vội tới Cửa Không trút màu da... Cõi Đại-đồng mở toang.

-------------------------------------------------------------------------

  Từ Đấy


giữa khoảng vô-cùng bất-tuyệt bào-ảnh chưa vang nhạc-khúc luân-hồi, đã nơi đây một giòng trôi... vẫn là NGƯƠI, một giòng trôi... nhưng khác hẳn con sông bên lở bên bồi, cũng chẳng sẵn hai bờ lưu-huyết, NGƯƠI chỉ tự đào sâu thành muôn đáy huyệt để nhô cao thành ức triệu nấm mồ thôi. đêm nào kia, chín phương trời thâu cả lại vòng tay Hi-Mã-Lạp; cho núi Tuyết hiện chân-thân chín tầng Bảo-Tháp vươn lên trao một làn hơi chứa sức sống bao trùm vạn-hữu. trong giây khắc, đủ Mười-Phương thành-tựu, nét hoa Đàm nở tươi và chân-diện-mục của Con-Người. sát-na ấy, cũng lòng NGƯƠI ghi-nhận; giải lụa không màu hằn lên vết ấn tròn đầy trăng đẹp tháng Tư. chớp mắt lụa rung, ánh vàng lay ngấn, giòng trôi thấp thoáng bè Từ... ôi Thời-Gian; NGƯƠI nhập-đạo rồi ư? bao thương tích trên mình NGƯƠI từ đấy khép lại như không, và không hề máu chảy; NGƯƠI đợi tròn trăng, mơ phút Giáng-lâm... mai đây lắng hết trần tâm một giòng trôi giữa hương trầm tiếng chuông.


mùa phật đản 2510.
-----------------------------------------------------------------------

  Đáp Số


khoét thủng mãi vết thương Trời-khuyết-sử tầng mây dị vực lo-âu. đất vươn thẳng một cánh tay Thần-Nữ đưa lên cao phiến đá năm màu đã luyện cho vừa kích-thước. từ đấy về sau đêm trần-gian có gương có lược có lưỡi liềm treo giữa không-trung. mỗi thứ lại nhân lên cho tới vô-cùng ở biển lớn sông dài hồ rộng ao sâu ở ngà chuốt bình-phong vàng thếp mái lầu ở những giòng thơ ở những giòng châu... là mặt nước hay không là mặt nước. riêng nơi đây cảnh hồ đêm hư-ảo ngàn cuống sen như tuyết như băng đã mấy thuở coi thường giông bão cắt làm sao cho đứt, hỡi liềm trăng! tơ trong cuống chỉ vương sầu kín-đáo hay thẳng tắp một phương lòng mộ-đạo, cần chi đâu lược Cung-Hằng. nhưng cũng thượng-tuần qua, khắp chốn khai-đăng cho phiến đá Nữ-Oa tròn đầy gương mã-não giúp muôn cánh trắng hồng soi nếp áo, hồ-sen nỡ chối-từ chăng? kìa ánh sáng chào mừng Hoa-Thất-Bảo chia lấy màu, chẳng mượn kính tam-lăng. ánh nguyệt bạch dẫu chia mà hợp nhất cầu vồng bảy sắc tơ duyên, từ thuở hai màu: Trời, Đất, cộng vào năm vẻ Đá-thuyền-quyên. và hết thảy gồm thâu trong Sắc PHẬT để thành Không; nói chi Còn với Mất. trăng-thiên-thu giác ngộ một đêm huyền. vết thương Trời-khuyết-sử y nguyên? hay lớn mãi trên chặng đường Sóc-Vọng? hay liền lại rồi ư, những đêm dài thẫm bóng? da trời không dấu-tích nào ghi... bài toán đặt ra từ thượng-cổ vườn trăng đêm ấy Lâm-tì-ni ngôi thứ Bảy đã bừng lên đáp-số lòng chúng-sinh rửa sạch mọi hồ-nghi. sức vá trời đâu phải một cánh tay truyền-kỳ đá vá trời đâu phải riêng một khối huyền-vi. trời ấy thủng những vết thương vô-số ai gắn vào muôn hạt ngọc li-ti? há chẳng phải một "tình-thương-vô-số" đầy không-gian thể-nhập sức Từ-Bi? chim kêu đỉnh núi Nga-Mi tiếng vang "PHẬT HIỆN" bay đi khắp trời. tháng Tư, đêm nguyệt tỏ ngời, năm năm Giải Đáp một lời treo cao.


mùa phật đản 2511
--------------------------------------------------------------------------

  Cuồng Ca Năm Ngọ


thơ say dốc xuống từ bao năm men dậy sông hồ vẫn nổi tăm. dâu biển biển dâu càng gắt nhịp càng chưa chịu tỉnh giấc con tằm. cố nhân hoặc tân nhân nào hỏi, đáp: tuổi trời cho đúng nửa trăm. nhưng tuổi vương tơ đâu đã chín, xuân này ta mới hai mươi nhăm. hai mươi nhăm năm rồi đây! một phần tư thế kỷ... từ năm RỒNG bay đến nay NGỰA hí; ta gượng vui cười cợt làm khuây, mà chiếc bóng lê theo nặng chĩu bước chân gầy. có ai ngờ được nhỉ? ta thất thểu trên đường thiên lý mắt mòn theo tháng ngày, như chiếc bóng như bước chân rền rĩ, mong gặp CHÀNG SAY tác giả THƠ SAY... ôi thất thểu sông Hồng đi tìm sông Nhị, hồ Bạc nằm tương tư hồ Tây! mỗi xuân sang mỗi sa lầy giòng thi-cảm dính bùn lây sông hồ... thời gian chỉ một bến Cô-Tô, chớp mắt Đông Tây thành cố đô. thuyền nát lòng khi rời khỏi bến còn mang theo mãi tiếng chuông Chùa. tim này vẫn đập mái chèo xa xưa. bầu không có rượu trên vai đeo hờ. tự bao giờ... lại bây giờ nghe sôi mạch máu còn ngờ men dâng.


sàigòn 1966
--------------------------------------------------------------------------

  Trẩy Hội


ba mươi năm trước hội CHÙA HƯƠNG ải Bắc thuyền xuôi vạt áo sương. bầu rượu nắm nem trời Xứ Lạng đôi giòng một ngả nước sông Thương. cỏ rơm chia ấm bao đêm trọ sắt đá chung vui mấy doạn đường. Chợ Tía, Đồng Văn, rồi Phủ Lý, phương này hợp lại đủ mười phương. trà xanh đón khách mười phương non xanh đậm lợt biên cương Đại Hùng. thoát trần như bước trên nhung miền Nam ngược tới miền Trung đổ về. trẩy hội đâu đâu cũng đổ về Đông Đoài Nam Bắc một phương quê. tạo "duyên" thay "nghiệp" giây Oan gỡ, hiểu "sắc" là "không" bến Giác kề. suối biếc chuyển lời kinh vọng khắp bụi hồng theo ngọn gió tung hê. bỗng dưng tìm thấy con người thật của chính mình xưa trót lạc đề. bài thơ HƯƠNG TÍCH vô đề cắm sâu vần điệu bên lề Thời Gian chữ bay từng cánh chim ngàn mỗi câu là một Niết Bàn hóa thân. chót vót Đài Thiêng chợt hiện thân cây Từ Bi nở đóa tường vân. trèo non cho biết TÂM không loạn xuống động càng tin PHẬT ở gần. mưa dưới vòm rêu ngừng lại nối nhạc trong vách đá ảo mà chân. càn khôn riêng một Chùa Thiên Tạo hẳn đã lên ngôi trước Lý Trần. những ai vua Lý vua Trần mượn chèo Nam Hải xa dần sóng mê. lòng thành trao tới vua Lê còn đây cửa động chữ đề Nam Thiên... rõ ràng PHẬT QUỐC ngự Nam Thiên động mở kỳ quan đá nhập thiền. chuông khánh nghe xa còn phảng phất khói hương ngoảnh lại vẫn triền miên. đường thênh thang đó, thân lìa tục; đời hẹp hòi sao, mộng gặp tiên! ngắm gốc Bồ Đề, ai có thấy ngưng vào khoảnh khắc cả Vô Biên? một vòng nhân quả vô biên gió rung cây Bạc cây Tiền nhớ chăng? hồn Thơ đã sạch như băng suối Đào cung Quế đâu bằng Hương Sơn! những từ mây khóa nẻo HƯƠNG SƠN ức triệu tâm linh nặng khối hờn. chia nước, người đi muôn dặm cách mong tin, ngày kể bốn ngàn hơn. lửa Ma Vương rắc, hoa nhiều vẻ sóng Nại Hà sôi, huyết mấy cơn. khói bốc lên trăng MÙA PHẬT ĐẢN hao gầy thương bóng núi cô đơn. mài trăng thẹn bút cô đơn non xa DẤU NGÁT chập chờn hồn quyên. dám xin PHẬT chứng lời nguyền: năm sau Bến Đục neo thuyền hành hương.


nam đo phật lịch 2511
--------------------------------------------------------------------------

  Mơ Chùa Hương


phơi phới hồn Thơ chắp cánh mây đường lên đất Bắc mở trời Tây. núi trong bóng Phật còn "thơm" mãi động chẳng tay Người vẫn "dấu" đây. một sợi kỳ HƯƠNG rừng suối dẫn muôn trùng cổ TÍCH gió trăng vây. trái mơ vàng ửng hoa mơ trắng theo bướm về bên gối rụng đầy. trắng vàng mưa thoáng nhẹ hoa trái tóc thơm lây mười phân một vẻ tai lắng hồn ngây. mơ Rừng Mơ như vẽ... hương Chùa Hương như gây... ngoài kia lan héo vũng lầy nát trà mi, đỗ quyên gầy tin xuân. tỏ mờ hai mảnh Pháp Luân trăng gneo hoài ở thượng tuần thế sao? Rừng Mơ vẽ lại bức chiêm bao chẳng biết Chùa Hương điểm góc nào? vách đá quên màu mây sửng sốt chuông vàng lạc giọng suối nôn nao. đứt tung bậc giốc mê đường xuống treo ngược hang sâu tuyệt lối vào. mặt giấy hốt nhiên chau nét bút DẤU THƠM kia thấp thoáng trên cao! giấy vừa chau nét mặt trời cũng rách nền sao ca trùng im bặt hơi sương nghẹn ngào. mơ Rừng Mơ ai dắt? hương CHùa Hương ai trao? mà nay phương vị lật nhào Giải Oan đâu phải Suối Đào ngày xưa. tung hoành mực đậm son thưa ba chiều cảm ứng vẫn chưa thăng bằng. không gian còn ngại trước gương Lăng chiều thứ tư về sức vạn năng. lòng mỗi chúng sinh nguyên có PHẬT đời ai hàn sĩ nửa làm TĂNG. bụi trong, sao ấn vàng hoen được? nước đục, vì hoa diện sáng chăng? thoắt đã từ hai câu hỏi ấy lưng đêm mọc lớn cánh chim bằng. đêm tung cánh vùn vụt ngày sải vó băng băng vơi bao nhiêu phút đầy bấy nhiêu trăng. Rừng Mơ dìu mộng bút Chùa Hương lên nhang đăng. Bồ Đề Thân đẹp bóng Hằng cây khô còn vướng cát đằng nữa chi? lời kinh dẫn bước chân đi DẤU THƠM ở gốc Từ Bi, nơi Lòng. ai vẽ cho thành nỗi ước mong bằng muôn nét thẳng vạn đường cong! bếp Trời ngay dưới đất bến Đục vẫn là trong. Pháp Luân một vẹn, CHÙA HƯƠNG ấy chẳng mực son mà tự vẽ xong. mấy phen lệ đá tuôn giòng đầu non mây đợi quấn vòng tâm tang. ai hay lệ rỏ vòm hang đáy hang cũng đá nhịp nhàng mọc lên. thân xưa thạch nhũ rơi vào lãng quên giờ đây thạch trụ ngàn năm vững bền. không gian nào kể dưới trên thời gian nào kể hai bên có bờ! tấm gương trăng Tỏ hay Mờ Tròn hay Khuyết, chỉ danh hờ đó thôi! chén vàng trong mắt tục bao độ xẻ làm đôi ánh vàng thơm Quả Phúc lâng lâng chuyện lở bồi. mới hay dằng dặc từ vô thỉ đạo vẫn đoàn viên, mãi ở ngôi. giấc mộng CHÙA HƯƠNG đâu phải "mị" Rừng Mơ kết trái Thiện Tâm rồi.


nam đô phật lịch 2511
------------------------------------------------------------------------

  Tuyết Trắng Gương Trong


PHẬT giáng LÂM VIÊN thuở nguyệt tròn lung linh NÚI TUYẾT giữa vàng son. phai vàng ngôi báu son cung cấm vạn thuở Tình Thương, tuyết chẳng mòn. ai nung gan đá khô giòn? ai thiêu cho ruột héo hon cỏ bồng? người đâu xương sắt da đồng mà ai sôi vạc lửa hồng bấy nay? PHẬT động lòng thương kiếp đọa đày hóa thân làm tuyết bốn trời bay kết hoa sáu cánh sen mười trượng giọt tĩnh-bình xoa dịu đắng cay. trăm trai giòng máu phương này còn thơm nhờ PHẬT ngàn tay độ trì. cỏ vành ngậm, đá bia ghi, núi cao bên nớ, bên ni sông dài. bao phen lửa quỷ thắt vòng đai vóc ngọc thân vàng chẳng thể phai. chuông khánh vẫn khua vang bốn biển năm năm mừng bóng nguyệt NHƯ LAI. chín phương một điểm linh đài son to ĐẢN nhật bút mài HÙNG phong. nhớ câu PHẬT ở trong lòng càng mơ tuyết trắng gương trong đời đời.


nam đô 2511
------------------------------------------------------------------------

  Viên Mãn


rối tơ lòng tịnh-đế mật tím sắc bồ-quân bụi độc khói cay sương nghẹn lệ muôn trùng cỏ loạn nhớ ba xuân. ngày đi... bước bước gian truân mạn-đà-la nở tới tuần tròn trăng Phật Mười Phương chiếu Pháp Đăng tỉnh hồn ai "bán vi Tăng" mấy mùa. tung hoành nẻo đô thị sắt đá hiện hình vua, cháy rực ngã ba đường Thế Kỷ lẽ đâu không hiện bóng Ngôi Chùa! nói chi rằng được rằng thua còn chi mà bán mà mua hỡi người? xương khô liệu có ngày tươi? nhựa khô liệu có nét cười về cây? trái đất rồi khô vỏ nằm nhăn mặt lưu-đày. hỏi ai đủ sức hồi sinh nó ngoài đấng Từ Bi đỉnh Núi Mây? nói chi rằng đấy rằng đây, ngàn xưa vẫn một Cao Dầy: PHẬT TÂM. bến mê đã nức hương trầm dễ ai gió bắt mưa cầm được ư? bút thơ này nguyện góp thân phận gầy ưu tư thép mài năm tháng còn thoi thóp tre rỗng trần tâm quyết chẳng hư. dám mong Phật kết bè Từ giữa đêm tròn bóng Chân Như giáng phàm. cứu nguy từ gốc: phương Nam, Bắc Đông Đoài sẽ lòng tham tắt dần.


nam đô phật lịch 2511
-------------------------------------------------------------------------

  Tháp Đoàn Viên


kính dâng lên Bồ-Tát QUẢNG-ĐỨC

Tháp, Tháp Lửa chín tầng xây giữa muôn trùng sắt máu vô tâm hiện tình thương vào gạch ngói. từng viên gạch chưa quên đã nung lò Hỏa-Đức, mạch đất tổ bỗng chứa chan Hùng-lực theo lời kinh nghẹn lệ đang trào ra, tung ra... ôi, Tháp dựng ngay từ chưa dựng Tháp, bằng Lửa Từ-Bi đốt thịt xương! nơi này đây cả Đô-thành cúi rạp nghe khói dâng nhòa ánh chiêu dương. nam mô Chư Phật Mười Phương: xóa rồi chăng, cảnh đêm trường Vô Minh? ý NGƯỜI đã Kim-Cương bừng nở; tàn nhục thân Đạo-pháp không lìa. vẫn Kim Cương Bảo Tọa chỗ ngồi kia. bóng cao vút thăng-hoa về chính giữa, tr^n bốn ngả đường mê. Người khiến giác quan năm cửa dẫn vào Tim sức Lửa tự Hồng-Bàng qua Đinh, Lý, Trần, Lê, đã gắn chặt lòng dân, sử ngàn trang rực rỡ; Người ra đi trường cửu với sơn khê. lửa Dân Tộc, gốc BỒ ĐỀ, trái tim này: một phương QUÊ nhiệm mầu. tượng ai tạc, bút ai ghi cho xứng? lòng muôn dân ghi tạc mới là sâu. mùa PHẬT ĐẢN năm nay còn THÁP dựng là Bóng Xưa Hình Mới nguyện gồm thâu. rồi đây, rồi trăm muôn đời sau... còn mãi THÁP LỬA THIÊNG, Trái Tim Người còn mãi; biển tha hồ dâng sóng cướp nương dâu. ký ức VIỆT, qua phút giây thần khải, vết kim cương sao có thể phai nhầu! ôi, LỬA sẽ về đâu?... bãi cát nằm say, bơ vơ cầu quán; đang cùng lắng tai lòng quê đòi đoạn. kìa LỬA từ TRÁI TIM bay ra muôn huyết quản, ai nòi VIỆT đều nghe trong huyết quản sôi lên Ngọn Lửa Bốn Ngàn Năm? cớ sao bãi cát say nằm? vì ai cầu quán đăm đăm mấy miền...? Tháp Bút ngoài kia rào rạt khuya nay cùng Tháp Báo Thiên. nam mô QUẢNG ĐỨC Đại Bồ Tát. ý Người ban ra, khắp non sông đều chuyển đạt: lửa từ bi hiện THÁP ĐOÀN VIÊN.

nam đô phật lịch 2511
-------------------------------------------------------------------------

  Bia Hùng Lực


đất PHẬT trời THƠ, một phen bĩ cực. xót đạo thương đời, lòng đau rưng rức. bồ tát thiêu thân, đêm tan đáy vực. thế giới nghiêng mình, Việt-Nam bừng thức. kìa tháp ĐOÀN VIÊN, này bia HÙNG LỰC. đá hiện Thời Gian, khắc sâu ký ức. thông điệp TỪ BI: TRÁI TIM sáng rực. bốn ngả hành hương, đều nghe thơm nức. giòng máu Lửa Thiêng, sôi lên trong ngực. vững một niềm tin: NGÀN TAY giúp sức. bèo bọt sông Mê, tìm ra lẽ Thực. phá vỡ cô đơn, thoát ly áp bức. ruột thịt hòa vui, trên đường chính trực. đồng thanh nam mô: Bồ tát QUẢNG ĐỨC


sài đô phật lịch 2511
-----------------------------------------------------------------------

  Lửa... Lửa... Và Lửa


Vừa mới hôm nào Lửa YẾN PHI bay lên... nối cánh Lửa TỪ BI; giờ đây, lại nỗi lòng dân Việt đau xé trời Nam: Lửa NHẤT CHI...! ba đợt cháy lên Thông Điệp Lửa, đêm sao có thể đặc như chì? đốt cho bom đạn tan thành lệ, hai ngả sông sầu hãy nguyện đi! hãy nguyện cho màu tang nổi gió trên đầu quả phụ với cô nhi! mẹ ơi, tóc hãy làm giông tố! màu tóc màu tang có khác gì... trắng một vòng bay quanh Trái Đất, nối dài Thông Điệp Lửa uy nghi. sáng chưng Hỏa Lệnh, bồ câu trắng sẽ đốt Thời Gian mở lối về.


đêm phật đản 2511

No comments:

Post a Comment